19/4/10

Ông địa Đồng Hưu.

Anh Hùng chết vào ngày Tết Âm Lịch năm 1957. Sau đó ít lâu thì cha xin thôi việc ở đồn điền cao su Hớn Quản về Phan thiết làm ăn. Lúc đó anh là đứa bé hơn 3 tuổi, nhưng anh đã có cảm giác buồn và nhớ nhà. Mặc dầu ở bên cạnh cha mẹ của mình, nhưng cứ mỗi chiều đến là anh thấy buồn dễ sợ và nhớ đến những buổi chiều tại Hớn Quản. Sau khi từ đồn điền Hớn Quản về Vinh thủy, cha không có việc làm trong một thời gian. Vì đã đi tu ở Tiểu chủng Viện và đi giúp xứ, nên cha có nhiều bạn bè quen biết là linh mục, trong số đó có LM Nguyễn viết Khai. Cha Khai có quen biết quan hệ với phủ tổng thống đệ nhất cộng hòa, nên ngài đã giới thiệu cho cha đi làm Địa điểm trưởng tại các khu dinh điền của chính phủ. Khu dinh điền là kế hoạch của chính phủ nhằm khai hoang những vùng rừng núi cao nguyên, ủi cây dọn rừng biến thành đất có thể trồng trọt để định cư những dân chạy nạn cs từ Bắc vô Nam. Mỗi địa điểm được tổ chức giống như một làng hay một xã, có vài ba xe ủi đất, có trạm y tế và vài ba nhân viên y tế, có thuốc men, có một vài tiểu đội lính vũ trang súng ống để giữ gìn an ninh. Và đứng đầu một cơ cấu như thế là ông địa điểm trưởng. Vùng Dakmil gia đình ta lập nghiệp từ năm 1975 tới nay khởi điểm cũng là một địa điểm dinh điền trong kế hoạch đó.


Địa điểm đầu tiên cha đi nhận công tác là Lệ Thanh 1 ở Pleiku. Cha đi một mình và ở đó được vài ba tháng thì xin đổi về Đồng Hưu. Trong một lần về thăm nhà, cha đưa anh đi theo. Anh không nhớ rõ năm nào, vì lúc đó còn quá nhỏ nên khái niệm thời gian thật mơ hồ. Chỉ biết là anh đã biết đọc biết viết và làm toán cộng trừ nhân chia được rồi, nhưng chưa đến trường mà học ở nhà do mẹ hay cậu dạy. Bây giờ nhẩm tính thời gian đi ngược lại, thì có lẽ đó là khoảng đầu năm 1960.


Đồng Hưu là một địa điểm mới được khai hoang, nằm trong rừng sâu. Xe ủi đất ủi sập từng khoảng rừng rộng lớn, rồi gom lại và đốt. Những nơi cành cây và thân cây được gom lại để đốt được gọi là đống gom. Sau khi đốt dọn sạch sẽ và đất đai sẵn sàng để canh tác thì phân chia lô, rồi cho người tới ở. Anh nhớ khi mới tới, điều đầu tiên cha dặn là buổi tối đi ra ngoài nếu có lính gác hỏi “ai đó” thì phải đứng im la lớn lên “tui là con ông địa”, không được chạy, vì chạy có thể bị bắn vì lính nghi ngờ có kẻ gian đột nhập. Ngoài ra cha còn dặn kỹ là đừng đi chơi gần những đống gom, vì nhiều khi nó cháy chưa hết, hay là nó đang còn cháy ngầm ở dưới mà lớp tro ở trên thì nguội, không biết chạy vô thì bị chết phỏng. Cha còn kể thêm trước đó một thời gian có đứa nhỏ bằng tuổi anh chạy chơi rồi bị bỏng hết cả người càng làm anh sợ và nhớ kỹ hơn nên không dám mon men đi đâu cả.


Hai cha con ở trong những dãy nhà lá, chia thành từng ngăn dành cho nhân viên hành chánh của chính phủ, có trạm Y tá, có vài tiểu đội lính. Vì địa điểm nằm ngay giữa rừng sâu, nên đêm lạnh và sáng sớm cũng như chiều tối sương mù la đà dày đặc mặt đất. Kỷ niệm anh nhớ khá rõ đó là đi tắm suối trong rừng. Không có phương tiện đào giếng vì nước ở quá sâu nên người ta chặn các khe nước nhỏ trong rừng lại thành từng vũng nước để dùng tắm giặt. Một buổi trưa ngủ dậy, cha đưa cho anh quần áo và dắt anh ra khu vực suối nói anh xuống tắm rồi cha trở về văn phòng làm việc. Nhìn xuống khe suối, thấy tiếng cười nói huyên náo, anh mắc cở và e ngại quá, nên đứng im trên đó luôn. Không biết lâu hay mau sau đó thì cha trở lại tìm anh để dẫn về, thấy anh vẫn đứng như trời trồng, không nhúc nhích gì cả. Cha la cho một trận, rồi dắt về. Anh cũng quên không nhớ là sau đó có trở lại tắm không hay ở dơ luôn như vậy.


Trong thời gian ở Đồng Hưu, anh còn nhớ có cô Y tá tên Hoàng, cô ta người miền Nam. Khi đi theo cha lên Đồng Hưu, anh chưa có dịp sống ở ngoài với người khác, nên vẫn giữ nguyên tiếng nói của vùng Nghệ An là “mô, tê, răng, rứa”. Cô Hoàng nghe anh nói như thế rất thích và cứ chọc để cho anh nói. Cô ta có lẽ là một người phụ nữ tầm 25 – 30 tuổi, không con nên thích con nít. Thấy anh thì khoái lắm rồi hay làm những đồ ăn đồ uống như nước chanh hột é dụ anh sang chơi, nhưng lúc đó anh thấy những món này rất lạ nên không thích. Hơn nữa, theo cách giáo dục của cha mẹ, mình không được tự tiện lấy đồ người khác cho, không được ăn uống bất cứ cái gì người khác mời, nếu không được cha mẹ cho phép, cho nên anh dầu có thích cũng không dám ăn.


Hai cha con ở với nhau được một thời gian, có lẽ là không lâu lắm, nhưng cái cảm giác của anh lúc bấy giờ là rất lâu, thì mẹ đưa cả nhà lên Đồng Hưu với cha. Có lẽ lúc này chị Tuyết đang nghỉ hè. Mẹ từ Phan thiết đi lên Đồng Hưu với 3 đứa con nhỏ trên tay, là chị Tuyết, 7 tuổi rưỡi, anh Thạch 2 tuổi rưỡi và chị Vân mới mấy tháng, hình như là 5 hay 6 tháng.


Dân chúng sinh sống ở địa điểm Đồng Hưu không biết xuất phát từ đâu, lúc đó anh còn quá nhỏ để lưu tâm đến những chi tiết như thế. Nhưng anh nhận xét là người dân chất phác dễ mến, và đặc biệt là rất quý trọng cha. Cha hay dẫn anh đi tới thăm các gia đình trong làng khi có dịp. Bây giờ vẫn còn nhớ kỷ niệm gia đình ông Duệ và những lần đi ăn cháo lươn tại nhà ông ta.


Một buổi tối trong nhà, sau bữa cơm tối Thạch chơi đùa trên giường, cứ đứng trên giường quăng mình xuống chiếc gối và la lối thích thú là “coi Thạch nhảy dù”. Nhảy một lát không biết trái miếng ra sao mà bị trặc tay, khúc cùi chỏ sưng vù. Phải tìm người đến nắn. Không biết ông thầy chữa bệnh trặc có đến ngay buổi tối hay không, nhưng hình ảnh còn lại là ông ta dùng một que nhang để hơ cánh tay của Thạch. Hình như không đau đớn gì vì không thấy Thạch la hét gì cả.


Một lần khác, đang lúc có khách khứa đông đúc tại địa điểm, cha có vẻ bận rộn nhiều, anh với chị Tuyết và một vài đứa bạn rủ nhau đi bộ thơ thẩn ra xa khỏi làng, trên con đường đất đỏ duy nhất từ ngoài đường cái dẫn vào. Lúc đó trời đã chiều, và bóng tối xuống thật mau. Không biết tại sao bỗng dưng anh có ý tưởng tinh nghịch là về nhà nói với cha rằng trên đường đi con thấy có biểu ngữ đề “Đả đảo Việt Nam Cộng Hòa”. Bây giờ anh quên nội dung chính xác lời anh nói với cha là gì, nhưng tựu trung là một dấu hiệu có sự lai vãng hay thăm viếng của cs trong vùng. Ngay sau đó, cha đã cho một nhóm lính mang súng ống đi thăm dò về phía mà anh với chị Tuyết mới đi chơi lúc nãy. Dĩ nhiên họ đã không tìm thấy gì khả nghi, nhưng họ không thể biết đích xác là anh đã bịa ra hay anh đã nhìn thấy thật những biểu ngữ bất thường như thế. Qua ngày hôm sau không ai nhắc lại chuyện đó nữa, mà cha cũng không nói thêm gì với anh. Cho đến bây giờ anh cũng không biết cha có nghi ngờ gì về sự bịa đặt của anh hay không.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét