Những năm cuối thập niên 70 qua đầu thập niên 80 chắc là những năm đói khổ nhất cho mọi nhà. Ở Đức-minh không quá đói gạo nhưng ngoài những nông phẩm sản xuất tại chỗ ra thì không còn gì nữa cả.
Qua những lần đổi tiền, đánh tư sản, quốc hữu hóa doanh nghiệp, thành lập hợp tác xã, nhà nhà chỉ còn nước tự lực cánh sinh. Tuy nhà có gạo, có ngô khoai nhưng đồ ăn thì hầu như chẳng có gì; đi làm hợp tác xã chỉ có điểm nên thỉnh thoảng phải bán một con gà hay giết lén một con heo mang thịt đi bán để có chút tiền tiêu dùng (thịt mang đi bán nên người nhà chỉ được hưởng mấy món lòng và tiết canh). Bởi vậy, món ăn thường thấy nhất trong các bữa ăn trong những năm tháng này là món đu-đủ. Nhà mình hồi đó có một cây đu đủ ngay ở cửa sổ trên gác nhìn xuống, cây không tốt lắm nhưng lại rất sai trái, cây càng ngày càng cao cho tới ngang tầm cửa sổ căn gác. Từ cây này sinh ra các món : đu đủ ngâm mắm, canh đu đủ, đu đủ xào, đu đủ luộc,…. (Sơn : dầu chỉ ở nhà có 1 năm, từ mùa hè 1977 đến mùa hè 1978, anh cũng không quên được cây đu đủ bên hông nhà, và những bữa cơm mà đu đủ là món chủ lực, do Trinh xào nấu)
Trứng gà, chứ chưa nói thịt gà, thuộc loại hàng xa xí phẩm, phải cất dành để cho ấp hay đem ra chợ bán hầu có tiền mua ít đường, dầu ăn. Mẹ nuôi heo nái, mỗi lứa thường có một, hai chú heo con còi cọt; vào một ngày đẹp trời nào đó, tự nhiên bữa cơm thấy có thịt và trong chuồng cũng vắng bóng luôn chú heo con còi cọt, cha là người giải quyết rất gọn các trường hợp này. (Sơn : lễ Phục sinh 1978, cha ở nhà làm thịt chó. Đó là con chó của nhà, anh không nhớ nó màu gì, mập ốm ra sao. Chỉ còn nhớ là cha không đi lễ buổi tối mà ở nhà làm thịt chó với mẹ. Lễ về thì thấy đã có nồi rựa mận tổ bố).
Những bữa tiệc này là điều hiếm hoi, lâu lâu mới có. Những người có công cải thiện các bữa cơm hằng ngày trong thời gian này là Nguyên, Thủy và Quang, nhất là Nguyên.
(Chị Tuyết : Chị đi tu xa nhà vậy mà cũng biết tài câu cá đặc biệt của Nguyên đó. Người miền Nam gọi là « sát cá». Không biết nơi người ấy có một mãnh lực thế nào mà cá cứ đâm vào lưỡi câu hoặc tấm lưới của người ấy thôi. Trong các sơ cũng có những người có khả năng đặc biệt như vậy. Còn chị Tuyết thì cá vừa thoáng thấy bóng là đã chạy mất hết rồi. Hoặc có đút mồi tận miệng nó cũng không thèm đớp !
Lần ấy chị Tuyết về thăm nhà, nghe mẹ nói Nguyên câu giỏi lắm. Nhờ có Nguyên mà cả nhà lâu lâu được những bữa cơm với cá tươi ngon tuyệt.
Vậy là với gợi ý của mẹ, hôm ấy Nguyên đi câu, trổ tài để đãi chị Tuyết một bữa. Lâu lâu chị Tuyết mới về nhà một lần mà, tới hai năm lận. Hôm đó Nguyên chuẩn bị đồ nghề rất sớm, từ sáng là đã vác mồi và cần câu ra đập Tây rồi ! Mẹ cũng đi chợ mua sẵn đồ để nấu món cá lóc canh chua hay gì đó …
Chiều đến, chờ mãi mà không thấy bóng dáng Nguyên đâu cả. Mẹ đành phải đổi món ăn thôi. Cuối cùng thì Nguyên cũng về tới. Không biết « tổ trác » hay sao mà mất toi công cả ngày ! Ngồi chờ mãi không thấy tăm hơi chú cá nào bén mảng tới nạp mạng cả nên Nguyên đành lầm lũi trở về với giỏ không !
Thương em quá, hôm ấy phải giầm mưa nữa… ! Có lẽ nhờ ơn « Cách mạng » mới có cơ hội cầm cần câu ! Câu để kiếm sống theo một nghĩa nào đó chứ không phải để giải trí như những người ở đất nước văn minh Âu châu. Họ câu cá không phải để kiếm cá ăn mà để thư giãn nên câu lên rồi lại thả xuống.
Lần ấy thì Nguyên hơi bị « xui» nhưng những lần khác thì cá xui, bị Nguyên chộp. Chị Tuyết cũng ít nhiều được hưởng lộc của Nguyên mỗi khi có dịp về thăm nhà đó chứ. Cám ơn Nguyên với tài câu cá.)
Thủy, Quang thay nhau (và đôi lúc giành nhau nữa!) đi cất te ở đập Tây để kiếm thêm bát tép, thường thì rời nhà lúc giữa chiều và tới sập tối mới về. Nguyên thì mỗi chiều đều vác cần câu đi câu rê trong mấy đám ruộng gần nghĩa địa. Số Nguyên hình như rất sát cá nên hầu như ngày nào cũng kiếm được chút gì, đôi bữa ở nhà nấu cơm sẵn, chờ Nguyên về để có cá làm thức ăn. Nhưng cũng có những ngày Nguyên vác cần câu về nhà mà chẳng có gì cả, những lúc đó Nguyên thường bị ghẹo là bị sẩy con cá lớn lắm làm cho Nguyên tức anh ách. (Quang : Hồi đó em một buổi đi học, buổi chiều về rang thính (cám) làm mồi đi cất tép. Điểm đi thường là đập bà Khoan, hay đi chung với Ngân con ông Nhàn. Cứ đi từ chiều đến tối mới về, hôm nào được thì khoảng nửa oi (đồ đựng tép, cá), hôm nào ít khoảng 1 chén (bát). Nhiều hôm mẹ không muốn cho đi cũng trốn đi, vì đi cất tép được chèo xuồng dưới nước thích hơn là làm những việc khác.)
(Trinh : Quang hồi nhỏ rất ham chơi và không thích làm việc nhà, chị nhớ là khoảng năm 86 trước thời gian chị học cao đẳng, lúc đó Quang học lớp 10, học buổi sáng, buổi chiều nghỉ thế nhưng buổi chiều Quang vẫn hay đi lên trường, lúc thì đi tập văn nghệ, lúc thì chuyện nọ, chuyện kia. Có hôm Quang ở nhà, chị mừng quá vì chiều nay sẽ có người đi làm cỏ lúa với mình cho vui ai ngờ Quang đã hẹn đi làm đổi công cho con Uyển, ngày mai cũng làm cho nó vì làm chưa xong, ngày mốt lại làm cho nhà con Thanh, ngày kia lại làm cho nhà con Ái, thế là hết tuần, cỏ nhà mình cũng đã làm xong và chẳng có đứa bạn nào trả công lại cho Quang cả.)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét