Năm 1975, anh đang học tại Đại Chủng Viện Giáo Hoàng Học Viện thánh Pio X ở Đà Lạt. Về nghỉ Tết xong vừa trở lại trường, đang chuẩn bị Phục Sinh thì nghe tin Ban mê thuột bị chiếm. Sau đó không lâu, tin xấu tràn về, ai cũng thấp thỏm lo âu. Sau lễ thánh Giuse 19.03.1975, các cha dòng Tên thuê xe chở các thầy theo đoàn xe di tản từ Đà lạt về Phan rang. Ở Phan rang, nơi tập trung đông đảo của những người chạy giặc từ Nha trang vào, và từ Đà lạt xuống, nên náo nhiệt vô kể. Nhưng dầu sao, nhờ vị trí ven biển, nhờ có làng Tri Thủy là quê hương của tổng thống đương thời Nguyễn Văn Thiệu, nên không ai ngờ rằng Phan Rang sẽ bị bỏ ngõ. Ở Phan rang vài hôm, mình đi vô Phan thiết. Đi bằng phương tiện gì, đi với ai, bây giờ không còn ý niệm gì. Phan thiết lúc này vẫn bình thường.. Trong thời gian ở Vinh Thủy, thì gặp Thạch từ bên Vinh phú về. Thạch theo bạn bè từ Nha trang về thẳng Bình Tuy, rồi sau đó trở ra Phan thiết, tá túc nơi nhà chú Điều (chú Điều ở Vinh Phú là người cùng quê Song Ngọc với gia đình mình và có họ hàng xa xa theo mối liên hệ như sau: ông nội của cha là anh ruột của bà nội chú Điều). 2 anh em gặp nhau. Nhưng hình như mỗi đứa ở mỗi nơi. Thạch ở trong nhà xứ Vinh thủy với cha Hiên còn mình ở ngoài nhà xứ Thuận nghĩa với cha Cung. Có o Lài ở trong nhà xứ. Trong thời gian ở Vinh Thủy vẫn đi lại chơi với nhà ông bà Chức, nhà ông Chinh, và nhà ông Yên. Ngôi nhà của mình ở Vinh Thủy bỏ trống từ khi cả nhà di chuyển lên Ban mê thuột vào năm 1973, đến lúc đó vẫn chưa bán được.
(Thạch: Trong thời gian loạn lạc, thương cảnh lạc lõng của 2 anh em nên có nhiều gia đình cũng ngỏ ý muốn bao che: gia đình ông Yên, ông Chinh, chị Chức. Đường Phan-thiết đi Bình-tuy không còn thông nữa. Lần lượt, nhiều gia đình bỏ Phan-thiết lên ghe đi Vũng-tàu, gia đình chị Chức là một trong những gia đình còn nấn ná ở lại nhưng cuối cùng cũng khăn gói ra bến ghe Phú-hài nằm chờ cơ hội kiếm ra chỗ trên ghe, 2 anh em cũng cùng chờ với gia đình chị Chức.
Số người chờ đợi thì đông trong khi ghe cộ thì không có mấy, còn phải tranh dành nên nằm đã mấy ngày mà vẫn chưa đi được. Vào thời điểm này có tin Nha-trang bỏ ngỏ, nhà tù bị phá cửa, dòng người di tản, trộn lẫn với các đơn vị quân đội tan hàng từ miền Trung đổ vào, qua Phan-rang vào đến Phan-thiết. Phan thiết là trạm chờ cuối cùng vì không thể đi xa hơn được nữa. mới tạm lắng dịu nhưng số người chờ đợi một cơ hội để bắt ghe vào Vũng-tàu tăng lên gấp bội, hỗn loạn cũng gia tăng vì tàn quân không có ai kiểm soát.
Có một buổi tối, ngồi trên nhà sàn trên sông, 2 anh em nói chuyện với một người mới tới trong dòng người chạy loạn từ Nha-trang, anh ta ngao ngán tường thuật những diễn tiến đã trải qua trên chặng đường và kết thúc bằng một câu “tôi chỉ còn có một thứ, mà thôi, bây giờ cũng chẳng cần giữ nó làm gì nữa”, sau đó anh ta thọc tay vào người lôi ra một vật gì, ném cái “tủm” xuống sông và từ giã. Anh đoán đó là khẩu súng nên đợi anh ta đi khỏi hồi lâu, anh cởi đồ mò xuống chỗ anh ta vừa ném và tìm được khẩu súng Colt ngắn. Trong những ngày chờ đợi thì cũng có lúc đi tới đi lui về Vinh-thủy, có lúc 2 anh em cùng đi với con chó lửa đó trong người. Về sau khi Phan thiết đã có sự hiện diện của quân đội giải phóng thì anh đã ném khẩu súng xuống giếng đàng sau nhà chú Bích để phi tang.
Cuối cùng, thấy tìm chỗ khó khăn lại không muốn phiền lụy gia đình chị Chức, 2 anh em quyết định ở lại, anh ở với thầy Cung nơi nhà cha già Khiêm, Thạch ở trong nhà xứ cha Hiên với Nguyễn Vĩnh Long, bạn cùng thời lớp nhì (lớp 4), cùng nhảy lớp để lên đệ thất, sau đi tu muộn ở Lâm Bích (Nha-trang))
Nhưng ít hôm sau thì làn sóng người tị nạn tràn về nhiều hơn nữa. Thạch và mình vẫn ở lại Phan thiết vì không biết đi đâu. Trong thời gian này, giữa tháng tư 1975, kỷ niệm đáng nhớ là lên phi trường đón Đức Giám Mục Huỳnh văn Nghi từ Sài gòn về nhậm chức Giám mục địa phận Phan thiết, là địa phận mới lập do được tách rời khỏi địa phận Nha trang, bao gồm 2 tỉnh Bình Thuận và Bình Tuy.
Vào ngày 19 tháng 4, 1975 thì vc tràn vô tới Phan thiết. Người ta hoang mang, chạy náo loạn, vì không biết đi đâu, và làm gì. Chính quyền cũ không còn, mà chính quyền mới không biết là ai. Bỗng dưng thấy lo sợ, và mình chạy ra ngoài Vinh Phú, gặp mấy cô con chú È, hỏi thăm thuyền để đi vô Sài gòn. Ra Vinh Phú không gặp được nhiều người mà tình cờ gặp được một chị, mình hỏi thăm và tự giới thiêu tôi là thầy Sơn bên Vinh thủy, muốn tìm ghe thuyền vô Vũng tàu, nhờ chị chỉ dẫn. Ngay chiều hôm sau chị ấy chạy xe ra tìm mình ngoài Vinh thủy và nói là có thuyền đi, nếu muốn đi thì chuẩn bi liền. Được tin, chạy đi tìm Thạch, rồi 2 anh em nhờ người chở sang Vinh Phú, đến nhà chị ta. Chị ấy còn dọn cơm mời ăn nữa, nhưng lòng dạ đâu mà ăn, mình chỉ ăn vài ba miếng. Bây giờ nghĩ lại vẫn thấy cảm kích trước lòng tốt của chị ta, một người mình không quen biết gì trước, mà đã có lòng quan tâm và bỏ công đi tìm tòi và thông báo cho mình về chuyến đi.
Ngay chiều hôm đó, Thạch và mình xuống thuyền đi Vũng Tàu. Tới nơi, lên bờ, đón xe về Sài gòn. Sài gòn vẫn còn là vùng tự do, vì lúc ấy, những ngày cuối tháng 4, năm 1975, Sài gòn đang hỗn loạn vì những tin đồn ngược xuôi về chuyện đánh hay đầu hàng. Tới Sài gòn, ghé về nhà bác Châu bên Võ di Nguy – Phú Nhuận (hay là nhà chị Nguyệt anh Đăng, ở Nguyễn Cư Trinh – Phát Diệm). Sau đó đi Thủ đức tìm Phong. Và ít hôm sau, cả 3 anh em cùng đi xuống Cần Thơ thăm chị Tuyết. Có cả Trần Liên là bạn học của mình ở GHHV Đalat.
(Thạch: Tới Vũng Tàu, Sơn+Thạch đón xe đò về SG, xuống xe ở Thủ-đức để tìm Phong tại dòng Phan-xi-cô, gặp Phong còn lại một mình ở đó nên 3 anh em cùng đi tiếp vào SG. Trước khi đón xe có ghé vào quán nước uống côca, Thạch có nghe ai đó chỉ là bỏ chút muối vào coca thì uống vào sẽ không bị ợ, Phong cũng đồng tình vì hình như cũng có nghe nói vậy nên 2 anh em xin chút muối để bỏ vào nước: đúng là không bị ợ hơi nhưng chỉ tổ mất một buổi tối khó chịu vì cái bụng ách hơi lúc ở nhà o Lân (không phải nhà bác Châu).
Anh Sơn có 1 trụ sở của dòng Tên để liên lạc, nằm trên đường Yên-đổ (?), rất gần nhà o Lân nên anh Sơn có dẫn Thạch và Phong đi bộ từ nhà o Lân ghé tới đó, gặp bạn anh Sơn (thầy Liên). Hình như ở đó cũng có thầy nào biết về Cần-thơ và dòng Chúa Quan Phòng nên chỉ dẫn đường đi làm anh Sơn có ý định ghé xuống chị Tuyết.
Nằm ở SG không làm gì, cũng là trọ nhà người khác, lại không biết lúc nào yên ổn nên ai cũng đồng lòng đi thăm chị Tuyết, có thêm thầy Liên đi theo. Khi tới bến xe Cần-thơ có bị cảnh sát hỏi giấy, anh Sơn đã có giấy hoãn dịch tu sĩ, Phong thì còn nhỏ, chỉ có Thạch là đúng trong hạn tổng động viên mới được ban hành nhưng nhờ sinh vào cuối năm nên còn hơn 1 tháng nữa mới tới hạn trình diện, lý do chính xác nên việc xét giấy tờ êm xuôi. Bốn người lên xe lôi trực chỉ nhà dòng Chúa Quan Phòng. Xe lôi ở Cần thơ có dạng như xe xích lô nhưng lớn hơn một chút và do xe Honda kéo đi.
Ở Cần-thơ được 1 hay 2 hôm thì anh Sơn và thầy Liên đi Phú-quốc, Thạch và Phong ở lại nhà dòng vì đường xe về SG đã bị tắc. Từ đây mất liên lạc với anh Sơn cho tới lúc gặp lại ở Ban-mê-thuột)
(Phong: Tình hình ở Cần Thơ yên ắng, nhất là trong tu viện. Mấy anh em được nhà dòng ưu ái, cho ăn uống tử tế, suốt ngày đi rong chơi trong khuôn viên nhà dòng. Sau khi anh Sơn đi Phú Quốc được vài ngày, một buổi sáng khi đến nhà nguyện dự lễ mới hay tin VC đã vào đến SG. Không hiểu lúc đó sợ gì mà các xơ dặn dò đừng gọi bằng “xơ” nữa mà gọi bằng “chị”. Ngày hôm đó, đài phát thanh phát lời kêu gọi binh lính đầu hàng của TT Dương Văn Minh. Qua 2,3 ngày sau, Thạch và Phong mới trở về Sài Gòn. Như vậy thời gian ở Cần Thơ khoảng 7-10 ngày).
Ghé dòng Chúa Quan Phòng Cần Thơ, cả dòng vui mừng vì được gặp các em của Sr Tuyết. Ăn uống vui vẻ. Ít hôm sau, Thạch và Phong quay trở lại SG, còn anh với thầy Liên tiếp tục đi ra Phú Quốc. Đây là lần thứ hai mình ra Phú Quốc chơi thăm Trông. Khi đang ở Phú quốc thì được nghe tin đầu hàng của chính phủ Dương văn Minh.
(Chị Tuyết: Chị đi tu từ ngày 15/06/1964 lúc mới có 12 tuổi. Đến năm 1975 là được 11 năm nhưng lúc bấy giờ chưa được lên chức “xơ” đâu. Chị hãy còn trong giai đoạn gọi là “Nhà Tập”, kéo dài 2 năm, là giai đoạn học đặc biệt về đời tu và thử tập sống đời tu xem có thích hợp với mình không. Khi biến cố xảy đến là chị mới xong một năm thứ nhất thôi. Sau khi ba anh em rời nhà dòng, biến cố xảy đến, thì các chị nhà Tập cùng lớp với chị cũng được nhà Dòng cho về nhà hết. Chỉ còn chị với chị Trầm, người ở ngoài Đức Mạnh là nhà xa và ở trong vùng nguy hiểm nên còn nán ở lại một thời gian nữa với bà thầy nhà Tập là xơ Joseph-Marie mà hiện nay là bề trên Tổng quyền của Hội Dòng mà anh Sơn và Thạch có dịp gặp ở Paris.
Chuyến trở về nhà chắc chắn là khó khăn lắm nhưng chị không còn nhớ ra sao nữa. Chỉ thấy thiên hạ đi lại tấp nập, đồ đạc lỉnh kỉnh. Nhất là hai bên đường thì đầy dẫy những xác xe đủ loại.
**** Ghi chú: Thời gian chị ở nhà là mẹ sinh em Vũ. Lúc đó cha đã đi học tập, viết thư nhắn mẹ, khi sinh mà gặp khó khăn thì bổ đôi trái đu đủ sống úp vào bàn chân gì đó … Số mẹ cực, có mang vẫn cứ làm việc cho đến ngày sinh. Hình như tối hôm trước khi sinh, mẹ luộc khoai ăn ban đêm. Sáng sớm mẹ dọn đồ để đi nhà thương. Thạch lấy xe tính chở mẹ đi, nhưng đạp máy hoài không nổ. Mẹ đành phải đi bộ lên nhà thương, chị không biết cách nhà mình bao xa. Khi người nhà lên đến nhà thương thì em Vũ đã mở mắt chào đời rồi !****
Chị còn ở nhà một thời gian nữa, đến khoảng tháng 7 thì cùng với chị Trầm trở lại nhà Dòng. Vào đến Sài Gòn thì nghe nói các chị cùng lớp đã khấn (tức là làm xơ) hết rồi. Cả hai không tin, vì đúng ra là phải một năm nữa mới được khấn. Xuống Cần Thơ thì quả là không còn nghi ngờ gì nữa. Các chị đã khấn và được gửi ra các xứ đạo hết rồi ! Sợ cs đến không cho tu nữa nên Bề trên đã quyết định cho “khấn non” trước một năm. Chị và chị Trầm may mắn có khoảng một tuần để chuẩn bị tâm hồn và khấn vào ngày 12/07/1975. Sau đó cả hai được gửi đi nơi khỉ ho cò gáy có tên là Cái Rắn thuộc tỉnh Cà Mau, nơi mà sau này khi đi học Cần thơ Trinh có xuống ở mấy ngày.)
Trong thời gian ở Phú Quốc, dân chúng làm nghề chài lưới dùng ghe đi ra khơi để lên tàu lớn. Lúc đó không ai biết đi như thế để làm gì, và sẽ đi tới đâu. Không ai tưởng tượng được là sẽ đi lập nghiệp ở một nơi nào khác. Mình không đi theo vì không biết gia đình ra sao. Ở lại thì dẫu xáo trộn, nhưng vẫn chắc hơn là ra đi. Gia đình Trông đi hết, giao chìa khóa nhà lại cho mình. Đến sáng thì thấy cả nhà Trông quay về, trừ bà mẹ. Tức là trong lúc chờ đợi lên tàu lớn, có người lên được, người chưa. Mẹ Trông ra đi viễn xứ một mình, trong khi các con kẹt ở lại.
Ít hôm sau, mình rời Phú quốc trở lại đất liền, về Sài gòn, rồi lần mò về BMT. Gặp Phong và Thạch ở nhà sẵn. Đó là vào tháng 5, 1975. Cha đã đi học tập.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét