Tháng 3 năm 1975, chiến sự bùng nổ ở Ban-mê-thuột nối tiếp bằng tin di tản chiến thuật chẳng bao lâu sau đó. Bạn bè nhìn tôi thông cảm vì biết tôi đã bị cắt đứt liên lạc với gia đình. Giữa tháng 3, chính phủ thu hồi quyền hoãn dịch và ban bố lệnh tổng động viên cho mọi thanh niên sinh năm 1957 trở về trước : nhiều người trong đám chủng sinh chúng tôi thuộc vào diện phải nhập ngũ, không còn tâm trí học hành, chỉ còn bàn tán xôn xao....
Buổi sáng ngày lễ thánh Giuse, 19 tháng 3, cha bề trên chủng viện tập trung học sinh và tuyên bố giải tán, không quên nhắc các chú trong hạn nhập ngũ tập trung lại chủng viện trước khi ra Đồng Đế trình diện. Mọi người thu xếp đồ đạc, ra về trong hoang mang vô tả. Tôi không có chỗ để về nên theo lời rủ rê của bạn (Phan), ghé về nhà nó ở Bình-Tuy.
Chơi ở Bình-Tuy mấy hôm rồi khăn gói về Phan-Thiết, đóng đô ở nhà chú Điều bên Vinh-Phú. Tại đây tôi được biết anh Sơn cũng đã về bên Vinh-Thủy, thế là anh em gặp nhau và cùng kéo về Vinh-Thủy. Lúc đó nhiều người đã rục rịch chạy vào Vũng-Tàu lánh nạn, còn vài gia đình trong xóm Thuận-Nghĩa trong đó có gia đình ông Chinh và gia đình chị Chức thương cảm cảnh lạc lõng của hai anh em nên đều rủ tá túc nơi gia đình họ. Mọi nhà lần lượt ra đi và hai anh em cuối cùng cũng đi theo gia đình chị Chức ra bến ghe Phú-Hài để chờ phương tiện xuôi Vũng Tàu vì đường bộ vào Bình-Tuy không còn thông thương được nữa.
Người đổ tới mỗi ngày một đông nên nằm mấy ngày vẫn chưa kiếm được chỗ. Rồi Nha-Trang bỏ ngỏ, Phan-Rang náo loạn theo dòng người từ miền Trung đổ vào, Phan-Thiết trở thành đáy con ngõ cụt quốc lộ 1, người càng đông thêm, đủ mọi tầng lớp, tạo nên cảnh hỗn loạn mất trật tự. Thời gian nằm tại Phú-Hài đã có lúc thấy một người bị bắn chết vì ỷ có vũ khí dành chỗ lên ghe, xác nằm đó không người chôn cất. Một đêm kia, hai anh em ngồi trò truyện với một người trong dòng người xuôi từ Nha-Trang đến, anh ta kể lại tình trạng hỗn loạn xảy ra tại Nha-Trang, Phan-Rang và ngao ngán về cái viễn ảnh không mấy sáng sủa. Sau buổi trò truyện thì anh ta cũng thảy luôn xuống sông vũ khí tự vệ còn dấu lại trong người, như một dấu muốn cắt đứt dĩ vãng đau thương, đó là một khấu súng ngắn. Anh Sơn sau đó cởi đồ, xuống sông mò lại khẩu súng, có lúc bận áo giáp, lận khẩu súng bên trong, trở lại xóm Thuận-Nghĩa đi chơi, hình như có bắn thử một phát trong mấy đồi cát, gần nhà thờ ngoài.
Thấy tình hình không dễ dàng và chắc là cũng không muốn chịu ơn gia đình chị Chức nhiều nên hai anh em quyết định không đi nữa, anh Sơn trở về ở nơi nhà cha già Khiêm, với thầy sáu Cung (Nguyễn Thiên Cung) còn tôi vào ở trong nhà xứ cha Hiên với Nguyễn Vĩnh Long là bạn thời lớp nhì, sau này đi tu muộn ở Lâm Bích. Thời gian này, cha Hiên tổ chức một ban cứu trợ cho các người chạy nạn, anh Sơn và thầy Cung được giao việc đi lập danh sách, có lúc qua tận bên Vinh-Phú, tôi không còn nhớ đã được giao việc gì nữa. Ở trong nhà xứ, sáng sáng lo theo Long đi giật chuông, dọn đồ lễ, mở và đóng cửa nhà thờ. Những người sống hai bên tỉnh lộ, còn ở lại, vẫn sinh hoạt trong ngày như bình thường nhưng tối đến thì cùng nhau gồng gánh vào khu nhà thờ trong để ngủ qua đêm nên buổi tối chung quanh nhà thờ có rất nhiều người trải chiếu, giăng mùng; Long vẫn chọc tôi vì đôi lúc thấy tôi trò chuyện với Sách (bạn của Vân), lại còn được cung cấp bánh trái lai rai.
Một tối tháng 4 năm 1975, đứng trên dốc nhà thờ, mọi người đều đổ mắt về hướng xa xa, phía nhiều ruộng muối, tai nghe tiếng súng nổ, mắt nhìn các vệt đạn đan chéo nhau trong đêm, ai cũng biết chuyện gì đã tới. Sáng hôm sau nhiều xe lính kéo theo mấy khẩu 105 ly tiến vào khu vực hồ Vinh-Thủy và dàn mấy khẩu quay ra biển. Vài anh lính tập trung vào nhà xứ, thấy có đàn guitar nên xin được nghe vài bản nhạc vàng, tôi hơi lưỡng lự nhưng cuối cùng cũng đành cất tiếng...
.......... Lạy Trời mưa tuôn cho đất sợi mềm hạt mầm vun lên
Mẹ ngồi ru con nước mắt nhục nhằn xót xa phận người……
Một, hai hôm sau, anh Sơn mượn xe Honda rủ tôi chạy lên cha Báu (xứ Thuận Nghĩa) xem tình hình ra sao, trước khi đi không quên mượn giấy xe mang theo vì nghe nói nếu bị du kích xét mà không có giấy thì xe có thể bị tịch thu. Ngang khoảng Vinh Lưu, du kích có chận lại hỏi giấy xe thật, nhưng đã chuẩn bị nên không hề hấn gì. Buổi trưa trở về, gặp thầy Cung càu nhàu vì tình hình chưa yên mà chạy đi bậy bạ.
Vài hôm sau, có tin đồn chính phủ cách mạng lâm thời sắp thu lại thẻ căn cước, hai anh em hội ý và nghĩ nên kiếm đường đi Vũng Tàu. Lúc anh Sơn đi lập danh sách cứu trợ, có quen biết một chị, nhà ở đối diện với bến cá, khu Thương Chánh; hai anh em chạy qua hỏi thăm và ngỏ ý định tìm đường vào Sài-gòn, chị ta nói hôm qua mới có ghe đi, bây giờ thì hơi khó nhưng khi nào có thì sẽ tin cho biết. Hình như không cần chờ đợi lâu vì 1,2 hôm sau, mới ngủ trưa dậy là thấy chị ta tới kiếm tôi trong nhà xứ và chở tôi ra tìm anh Sơn nơi nhà cha già Khiêm để thông báo là chiều hôm sau có chuyến đi, dặn dò là không nên mang theo đồ đạc nhiều. Chiều hôm sau, thầy Cung chở hai anh em qua điểm hẹn là nhà của chị ấy, tim bắt đầu đập nhịp lo âu. Trong nhà đã chuẩn bị cơm canh mời hai anh em nhưng không ai còn lòng dạ để ăn nên chỉ và qua loa vài miếng. Giờ đã đến, anh em vừa thò thụt đi từ nhà xuống xuồng để ra ghe vừa phập phồng lo sợ, vừa mới lên xuồng bơi ra thì thấy cách khoảng 50m có chiếc ghe nổ máy chạy, chị ta phải chỉ chỏ hô hoán cho ghe ngừng lại, vội vã chèo tấp xuồng vào cho anh em leo lên ghe. Sự việc diễn tiến thật nhanh chóng, trong vội vàng và trạng thái lo âu nên không còn nhớ có ai trong hai anh em kịp nói một lời cám ơn với người ân nhân, ngoài cái vẫy tay từ biệt. Cùng lúc ấy, mấy chiếc xuồng du kích ập tới lên ghe xét giấy tờ, chất vấn mọi người, có lẽ mọi người cùng có chung câu trả lời là đi về với thân nhân ở Sài-Gòn nên mấy anh du kích rời xuồng và còn chúc thượng lộ bằng an nữa. Thật là hú hồn!
Khoảng trưa hôm sau thì ghe cập bến Vũng Tàu, hai anh em ra bắt xe đò đi Sài-Gòn, đường VT-SG rất tốt, xe đò nối đuôi nhau chạy nhanh để giành khách. Có một lúc nhìn xe đò chạy phía trước, một anh lơ xe chỉ đứng bằng hai chân trên mui, tay lo cuộn dẹp mấy sợi dây chằng hành lý, ai cũng chỉ chỏ và đôi lúc hú lên khiếp đảm khi xe lắc lư như muốn hất anh chàng văng khỏi xe. Xuống xe ở Thủ-đức, hai anh em muốn đi tới chủng viện Phanxicô để tìm Phong, không còn nhớ đi tới đó bằng cách nào nhưng gặp Phong đang lang thang ở đó, dường như đang chơi chọc mấy con cóc trong vườn. Gom góp ít đồ đạc cá nhân, Phong theo anh Sơn và tôi vào SG. Trên đường ra đón xe, ba anh em có ghé vào quán nước, hình như anh Sơn gọi bia 33 , tôi và Phong thí nghiệm uống côca với muối vì có nghe người ta bày uống như thế sẽ không bị ợ, kết quả là cái bụng tôi cứ bị khó chịu suốt buổi tối vì anh ách hơi. Nhà o Lân là điểm đáp của ba anh em tại SG, ngoài gia đình anh Đăng 4 người sống tại đó, đã có thêm mấy người con chú Bích , nay lại thêm ba anh em chúng tôi nữa. Đối với tôi, nếu kể từ lúc đủ lớn để nhận thức được các sự việc, có lẽ đây là lần đầu tiên tôi tới SG; đêm Sài-Gòn nóng bức trong căn nhà chật chội, tôi phải dỗ giấc ngủ bằng cách chui đầu xuống gầm bàn cho có cảm giác tránh được hơi nóng, từ trong nhà muốn ra ngoài đường cũng phải cẩn thận để khỏi dẫm trúng đồ đạc, ngay ngoài đầu hẻm có nhà vệ sinh công cộng, là nơi cho chúng tôi giải quyết nhu cầu thay vì dùng nhà vệ sinh bé tí trong nhà.
Thuở ấy, tôi không biết gì về SG nên dù có đi tới nhiều nơi cũng không biết chỗ đó là gì, chỉ nhớ mấy anh em có đi bộ từ nhà o Lân tới nhà sách Khai Trí, tới bùng binh công viên « Con Rùa » và đi tới một cơ sở của dòng Tên trên đường Yên-đổ, rất gần nhà o Lân, tại đây anh Sơn gặp lại người bạn học, từ Đà-lạt xuống tá túc lánh nạn và cũng tại đây anh Sơn được người chỉ vẽ đường đi nước bước để tìm tới nhà dòng Chúa Quan Phòng (Cần-Thơ).
Trong hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc, gia đình ly tán chắc trong lòng ai cũng nghĩ 4 chị em sống xa gia đình là những thành viên gia đình lúc đó còn sống sót, cùng gom lại một lần cho biết tương lai phải ra sao, vả lại ai cũng một lần muốn biết thành phố Cần-thơ thế nào. Bạn anh Sơn, anh Liên, tứ cố vô thân nơi đất Sài thành, cũng muốn tháp tùng ba anh em cho qua ngày tháng, thế là 4 người trực chỉ Cần-Thơ.
Sau khi qua phà Hậu-giang, tới bến xe Cần-Thơ đã bị cảnh sát chiếu cố ngay : anh Sơn và anh Liên có giấy hoãn dịch tu sĩ, Phong còn nhỏ, chỉ có tôi bị hạch hỏi vì thuộc diện nhập ngũ, cũng may là tôi nắm chắc quy định ngày nhập ngũ vào tháng 6 cho những người sinh cuối năm 1957 nên tôi vẫn còn hạn tự do đi lại được hơn một tháng nữa. Thủ tục xong xuôi, chúng tôi bắt xe lôi để tới nhà dòng chị Tuyết; Cần-Thơ có dạng xe lôi đặc trưng để chở khách, chỗ khách ngồi tương tự xe xích lô nhưng lớn hơn một chút, phía trước có cái càng để móc dính lên yên một chiếc xe máy, tài xế cứ thế kéo đi, thời đó thường là Honda hay Suzuki 50 phân khối.
Sự xuất hiện của ba anh em có lẽ là một sự bất ngờ cho chị Tuyết và cả nhà dòng, bốn vị khách được tiếp đãi rất nồng hậu và được sắp đặt cho ở nơi nhà khách, cơm nước đưa tận nơi, chị Tuyết được đặc trách vào việc tiếp đãi, thăm hỏi. Nhờ chuyến đi này mới thấy được cái không khí thân tình ràng bó khắng khít như chị em một nhà của các nữ tu : mọi người trong dòng đều rành rẽ ngọn ngành về gia đình chị Tuyết. Có lẽ sự hiện diện của bốn người khác phái đã ít nhiều khuấy động khung cảnh và sinh hoạt bình thường của các chị.
Một vài hôm sau khi ghé dòng CQP, anh Sơn và anh Liên lên đường đi Phú Quốc thăm bạn. Phong và tôi, hoàn cảnh những đứa mồ côi, được mời ở tạm lại nhà dòng trong lúc chưa có tin tức gia đình; hai đứa không còn ở nhà khách nữa nhưng được dọn qua khu ký túc xá của trường trung học, ở đó cũng còn dăm ba đứa học sinh lớn nhỏ, không biết vì lý do gì, vẫn còn ở lại đó, ngày ngày chỉ thấy tụi nó cười giỡn và vạch lưng ra cạo gió. Trong thời gian ở lại này, hai anh em đã được chị Tuyết dẫn đi vòng vòng trong vườn, tham quan nhà bếp và những nơi làm việc, vườn của nhà dòng có rất nhiều cây mận xốp, trái rụng đầy.
Tình hình mỗi ngày một căng thẳng cho tới một sáng kia, lời tuyên bố chuyển giao quyền lực được lặp đi lặp lại nhiều lần trên đài phát thanh SG.
Chờ một vài ngày cho tình hình lắng dịu, hai anh em quyết định rời nhà dòng; để làm gì thì chưa biết nhưng hai anh em đồng ý là phải về tận nhà xem xét tình hình rồi mới tính tới đi đâu sau đó. Trước khi rời nhà dòng, tôi đã rất nhạc nhiên khi mẹ bề trên ưu ái tặng một số tiền khá lớn, dành làm lộ phí và để chi tiêu trong những ngày lưu lạc, 20 hay 40 ngàn gì đó. Không xuôi chảy nhưng anh em cũng về tới được nhà o Lân ở SG, thành phố đã nhộn nhịp trở lại, vỉa hè bày bán la liệt đủ thứ đồ dân chúng thu hoạch được trong những cuộc tảo thanh các cơ sở và nhà cửa bỏ trống. Hải (con chú Bích) kể về món bánh mì trét bơ, rắc thêm chút đường cát một cách thèm thuồng nên sẵn có tiền trong túi, tôi rủ cả bọn ra phố mua liền một cục bơ về nhà ăn cho đã thèm.
Mọi người từ xa chạy nạn đến SG nay lục đục thu xếp để trở về, xe cộ đều đầy nhóc người. Phong và tôi đi ra Thủ-Đức, thành phố vẫn còn ngổn ngang tàn tích , sau khi thu dọn đồ đạc, chúng tôi cũng hòa vào đám người đứng đón xe dọc bên đường, hy vọng nhảy lên được một chuyến xe để ra tới Nha-trang. Sau những chờ đợi và chờ đợi, chúng tôi chỉ hy vọng có xe để đi được đoạn nào hay đoạn đó. May mắn quá, có một chiếc xe trờ tới : “Đi Phan-thiết không?”, không lưỡng lự, chúng tôi nhảy liền lên xe, kiểu xe thùng nhỏ bít bùng, có hai dãy ghế hai bên như xe lam, chính giữa kê thêm vài băng ghế gỗ cho bà con có chỗ ngồi. Đoạn đường quốc lộ từ SG ra tới Bình-Tuy thật vất vả cho xe cũng như cho hành khách, nhiều lúc xe phải đánh vòng tránh những khúc đường hư hay phải lội sông vì cầu đã sập; mỗi lúc như thế mọi người đều phải xuống để xe bớt nặng, chạy bộ theo xe để phụ đẩy lúc cần thiết, mùa mưa chưa tới nên bụi ơi là bụi. Rốt cuộc thì xe đã vượt qua được mọi dốc đá và những lòng sông cạn để tiếp tục chặng đường. Không còn nhớ rõ có phải chuyến xe này, khi gần tới Phan-thiết, tài xế phải sử dụng hộp số để hãm xe vì hệ thống thắng bị trục trặc.
Xe tới PT thì trời đã tối, hai anh em tự hỏi không biết mình sẽ đi tìm ai, không biết những người nơi xóm Thuận-nghĩa đã trở về chưa và không biết phải làm gì nếu không tìm thấy ai quen. Xe ngang qua cổng chữ Y, là nơi bao nhiêu xe dừng lại cho hành khách ăn uống, cũng là nơi để xe lấy thêm dầu, nước trước khi tiếp tục cuộc hành trình, hai anh em quyết định xuống xe tìm chỗ ăn uống rồi mới tính tiếp. Vào quán có đèn sáng, hai anh em nhìn nhau mà không khỏi ngạc nhiên bật cười : mặt mũi đứa nào cũng lem luốc bụi bặm và đen như vừa ở lò than chui ra. Sau khi rửa ráy, anh em gọi cơm phần nhưng nhà hàng chỉ có cơm dĩa, đành kêu mỗi người một dĩa cơm và chai bia con cọp để mừng qua khỏi chặng đường gian khổ.
Mới bước ra khỏi quán ăn, đang phân vân chưa quyết định đi đâu thì một chiếc xe đò tấp tới kiếm khách đi Nha-trang, anh em lại leo lên; trong xe đã chật ních người, lơ xe bảo leo lên mui, thế là anh em lại leo lên mui kiếm chỗ đặt mình giữa các bao hành lý, phía đầu xe đã có nhiều người nên hai anh em phải tụt lại phía sau, có mấy chiếc xe đạp được cột trên mui nên anh em bảo nhau nằm móc tay vào bánh xe đạp cho khỏi bị rơi xuống. Có một lúc, ngang qua khoảng Sông Mao-Chợ Lầu, xe bỏ quốc lộ chạy vào con đường nhỏ, hai anh em rán nép đầu xuống sát để khỏi bị mấy tàn cây trên đường đập trúng, thế mà có lúc cũng bị vài cú đau điếng. Khoảng 5 giờ sáng xe tới Phan-Rang, tài xế dừng lại chuyện vãn với ai đó một lát rồi đi tiếp, tới Nha-trang vào buổi sáng sớm.
Hai anh em bắt xe qua tiểu chủng viện bên Đồng Đế, nói là để thu góp đồ đạc nhưng dường như cũng chẳng lấy gì. Trong thâm tâm, tôi nghĩ nhà cửa chắc đã tan nát hết, người chắc cũng chẳng ai còn, có về nhà chăng là để nhìn lại căn nhà xưa, để tự mình xác thực những mất mát, đổ vỡ; và chắc rồi lại sẽ cuốn gói ra đi nên chẳng muốn mang theo gì cả. Hai anh em thảnh thơi thay đồ đi tắm biển, biển Nha-trang vào đầu tháng 5 còn rất lặng, nhất là vào buổi sáng sớm. Tắm biển, ngắm trời chán chê rồi hai anh em mới thủng thỉnh trở lại bến xe, không quên ghé quán gọi cơm phần cho hai người trước khi tới quầy vé. Sinh hoạt tại Nha-trang lúc đó có vẻ bình thường hơn, không hỗn độn tấp nập như ở Sài-Gòn, hai anh em mua được vé trên một chuyến xe lô, loại xe lẽ ra chỉ chở 4 người nhưng đã cải tiến để nhét được tới 8-9 người : 2 người cùng hàng với tài xế, 4 người trên dãy ghế phía sau, 3 người nữa phải vào bằng cửa sau, ngồi trên một băng ghế tí xíu đặt thêm trong cốp xe.
Chặng đường Nha Trang – Banmê rất bình thường, như không hề có chiến tranh. Bốn tiếng đồng hồ sau thì hai anh em đã có mặt trên con đường đất đỏ dẫn từ đường lộ vào nhà. Khung cảnh không có gì thay đổi, từ đường lộ, ở cây số 5, dốc đổ nhẹ đến một cây cầu nhỏ, lại lên một dốc và hơi quanh về tay phải, khu gia binh vẫn còn y, thêm vài chục thước nữa thì căn nhà nho nhỏ của tôi đã hiện ra, lành lặn, bình yên. Hai anh em bước vào nhà, chỉ thiếu bóng cha, tất cả đều bình yên, vô sự.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét