« Một ngày được ở trong Nhà Chúa quý giá hơn cả ngàn ngày ở ngoài thế gian . .. ! »
Khoảng đầu năm 2009, chị Tuyết đang ở Cần Thơ, một hôm tự nhiên bàn tay phải bị đau khớp sưng lên, phải ra ngoài trạm xá của các sơ để chữa. Được đắp thuốc và xông điện mấy lần là nhẹ hẳn và khỏi luôn. Xơ Linh, thầy thuốc Đông y của nhà Dòng, chuyên châm cứu, khoe với xơ cố vấn từ bên Tây về một số máy móc mới trang bị giúp chữa nhiều bệnh, đặc biệt có trị về khớp như khớp tay, chân, cột sống…Ồ vậy là đúng ngay chứng bệnh của mẹ rồi. Xơ Linh đốc chị Tuyết mời “bà cố” xuống đây xơ chữa bệnh cho. Thế là chi Tuyết điện ngay về cho mẹ, năn nỉ mẹ sắp xếp công viêc xuống Cần Thơ vài tuần, sẵn có chị Tuyết đang ở đó, để châm cứu và chạy điện một thời gian cho cái lưng đỡ bị nhức.
Hay quá, mẹ đồng ý đi chữa bệnh nhưng phải chờ sắp xếp công việc đã … !
Mẹ đi Cần Thơ như vậy là lần thứ hai. Lần đầu tiên mẹ đi dịp chị Tuyết khấn trọn đời năm 1984. Lần đó mẹ đi với cậu và Trinh. Thời điểm đó đất nước còn rất gay go về kinh tế chính trị. Nhà Dòng chỉ cho mỗi sơ khấn mời 3 người trong gia đình đi dự lễ. Trinh đã biết Cần Thơ nên được đi dẫn đường cho mẹ. Còn cậu thì xuống từ Gia Kiệm. Thời điểm đó còn khó khăn gian khổ, xe cộ rất hiếm hoi. Mẹ với Trinh phải đi bằng xe chở hàng. Dọc đường mẹ lại “xui xẻo” bị trẻ con ném đá trúng vào ngay trán tím bầm cả, chắc Trinh còn nhớ !
Trở lại chuyện mẹ xuống nhà dòng chữa bệnh. Chị Tuyết chỉ đường cho mẹ, cho mẹ số nhà, số điện thoại. Tới ngày hẹn, mẹ lên đường. Mẹ đi hai chặng Đakmil - Sài Gòn và Sài Gòn - Cần Thơ. Mới hơn 10 giờ là đã thấy mẹ có mặt ở nhà khách rồi. Mẹ hay thật, đi đến đâu cũng được cả. Mẹ đã nói là “đường ở nơi miệng” mà ! Các xơ ai cũng thán phục.
Trong nhà Dòng đã được biết trước là có bà cố xơ Tuyết đến chữa bệnh. Ai nấy nhìn thấy đều ồ lên nhận xét : “Má con sao mà giống nhau quá chừng !”, “Bà cố trẻ và đẹp quá !”
Trở lại Nhà Dòng sau 25 năm mẹ thấy mọi sự đều thay đổi hẳn đi. Chị Tuyết đưa mẹ đi một vòng để xem nhà : nào là nhà Nguyện, nhà Giữa, nhà Tập, nhà Chung, nhà Bếp, nhà Giặt, nhà Cơm, nhà Truyền thống, nhà Thỉnh viện, nhà Mẫu giáo, trạm xá cùng với vườn tược cây cối mênh mông. Mấy ngày đầu mẹ không sao mà định hướng được.
Mẹ được sắp xếp ở trong một phòng khá tiện nghi, có vệ sinh phòng tắm tại chỗ, dành cho khách đặc biệt. Sau khi dùng cơm chiều và nói chuyện với mẹ xong thì chị Tuyết về nhà mình ở dãy bên kia, không quên chỉ cho mẹ đường vào nhà Nguyện để sáng mai đi xem lễ.
Sáng hôm sau khi vừa nghe chuông thức dậy thì một em nhà Tập đã đến bên phòng kêu lên : “Dì ơi, bà cố té xuống mương ướt hết cả người rồi.” Trời ơi sao vậy !!! Thế là chị Tuyết thay vội áo quần ba chân bốn cẳng bay xuống xem sự tình ra sao. May mà lúc ấy mẹ đã lên khỏi nước vào phòng đang thay đồ. Vì cái mương ở ngay trước dãy phòng của mẹ, chỉ cách một cái sân chừng 5 thước thôi. Thật hú hồn hú vía ! Vừa thương mẹ mà vừa không nhịn cười được.
Sự thể là như vầy : Mẹ có thói quen thức sớm để đọc kinh nên khi vừa nghe rung chuông, mẹ nhanh nhẹn lắm, là đã sẵn sàng để đi vào “nhà Chúa”. Vì mới thức dậy nên đèn đuốc chung quanh chưa được bật lên. Mẹ ra khỏi phòng, khoá cửa, cẩn thận bỏ chìa khoá vào túi áo rồi đi về hướng nhà nguyện. Con chó giữ nhà nghe hơi mẹ lạ nên gầm gừ. Chiều hôm qua đã thấy chị Tuyết bị nó táp cảnh cáo khi đến gần, nên hôm nay mẹ phải đề phòng tránh xa nó ra. Mẹ vừa nhìn con chó vừa đi thụt lùi nhưng vì trời tối nên không thấy cái mương ở sát một bên. Thế là “tủm…” mẹ rớt gọn xuống mương ! Hôm đó nhằm con nước lớn nên mực nước gần đầy lên đến bờ mương, lút cả đầu mẹ. Sự cố quá bất ngờ nhưng may nhờ biết lội (lâu nay chị Tuyết đâu có biết tài bơi lội của mẹ) từ khi còn nhỏ (bỏ lâu quá chừng mà mẹ vẫn còn nhớ !!) nên mẹ vùng vẫy làm sao mà phóng được lên bờ vô sự. (Sáng ra khi đến xem hiện trường thì ai cũng phải thán phục bà cố già mà gân quá !) Mẹ phải trở vô phòng thay quần áo nhưng lục mãi trong túi không thấy chìa khoá. Thì ra trong lúc giãy dụa cái chìa khoá đã bị rớt xuống nước từ lúc nào rồi. Thấy trong phòng thánh có ánh sáng vì các em nhà Tập thức sớm hơn để dọn đồ lễ nên mẹ đến đó báo cáo sự tình và kiếm chìa khoá mở cửa. Khi chị Tuyết xuống đến nơi thì mẹ đã có chìa khoá để vào phòng rồi. Mẹ tắm rửa, thay đồ và tiếp tục đi đọc kinh xem lễ như thường.
Quả là sự cố có một không hai trong nhà Dòng ! Cả nhà ai cũng biết tin bà cố rớt xuống mương. Hai mẹ con đi đến đâu cũng được ân cần thăm hỏi và đối đáp vui vẻ. Nhờ có sự cố của mẹ mà sơ Giám tỉnh sau đó đã tức tốc cho người làm lan can ở mấy cái cầu bắc ngang mương chưa có tay vịn.
(Sơn: Chị Tuyết ! Còn chuyện mẹ bị trộm vô lấy đồ sau đó, sao không thấy chị nhắc tới. Hình như có liên quan tới chuyện mất chìa khóa ?)
Trong hơn một tuần ở đó, ngoài việc một ngày hai lần đi chữa bệnh thì mẹ xuống nhà bếp, vừa giúp lặt vặt vừa làm quen và kể chuyên đời cho các nhà tu hành. Mẹ đi xem lễ và tham dự giờ kinh phụng vụ trong nhà Dòng thật sốt sắng. Mấy ngày đó chị Tuyết xuống ăn cơm với mẹ. Thật là những giờ phút hiếm hoi. Cả đời mấy khi mà mẹ con được thảnh thơi để nói chuyện với nhau như vậy. .. Còn thời giờ rảnh thì mẹ nghỉ ngơi thêm đôi chút. Nhờ không có gì phải lo lắng và ăn uống ngủ nghỉ điều độ nên mẹ cảm thấy khoẻ nhiều. Mẹ lanh lợi và tươi tắn hẳn ra. Các sơ thích thú đề nghị : “Bà cố mới ăn cơm nhà Chúa có một tuần mà thấy khoẻ và đẹp ra, thôi bà cố ở lại tu luôn nghen !”. Mẹ dí dỏm đáp lại: “Ở đây thích quá, phải mà không có ông cố thì ở lại tu luôn rồi!”.
Chi Tuyết nhớ có lần cha cũng ước ao được ở trong nhà dòng nào như vậy.
Sau đó, vì cận Tết, với lại mẹ lo cha phải ở nhà có một mình nên vội vã trở về Đakmil.
Chị Tuyết ước ao phải chi có cơ hội nào để cha sống kinh nghiệm “một ngày được ở trong nhà Chúa, quý giá hơn cả ngàn năm” như mẹ vậy !
22/4/10
Về quê chồng
Tháng 7, 1995 – Đây là lần đầu tôi trở về thăm Việt Nam sau 16 năm xa cách, chuyến đi này đã để lại cho tôi thật nhiều kỷ niệm, nhiều ấn tượng thật đặc biệt… muốn chia sẻ cùng các anh chị em.
Chuẩn bị cho chuyến đi
Rời Việt Nam khi tôi mới lên 12 với toàn thế gia đình, trong quá trình trưởng thành, đôi khi tôi quên hẳn mình từ đâu đến, không còn phân biệt là mình đang sống tại nước ngoài vì tôi hoàn toàn hòa mình được với cuộc sống tại Canada, cũng không có những nhớ nhung, trông ngóng hay thiết tha gì về nước Việt Nam vì cha me và anh chị em đều chung sống bên cạnh tôi mỗi ngày…cho đến khi tôi gặp anh Thạch. Anh Thạch đã đưa tôi trở về lại nguồn gốc của mình, cho tôi tìm thấy lại TÔI, một cô gái hoàn toàn Việt Nam… và từ đó, tôi đã chia sẻ được sự nhớ nhung, trông ngóng về nước Việt Nam thân yêu, trông mong một ngày hội ngộ cùng cha mẹ và các anh chị em, tuy chưa một lần gặp mặt nhưng đã rất thân thuộc qua những hình ảnh tôi được xem hay những mẩu chuyện mà anh Thạch kể lại.
Lúc chuẩn bị đám cưới, sự lựa chọn địa điểm của tuần trăng mật rất là dễ dàng vì cả hai chúng tôi đều thấy không thấy nơi đâu bằng Việt Nam để đánh dấu cho sự bắt đầu của cuộc sống mới. Trước khi lên đường, tôi đã chuẩn bị chu đáo cho cuộc gặp gỡ, xem lại nhiều hình ảnh gia đình, học thuộc tên các anh chị em và các cháu.
Kỷ niệm đầu khi đến Sàigòn
Sau hơn 35 tiếng đồng hồ từ khi rời phi trường Montréal, với 3 chặng đổi máy bay tại Toronto, Vancouver và Hồng Kông, chiếc máy bay của hãng Cathay Pacific đã đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Lòng tôi thật là hoang mang, hồi hộp, một cảm giác thật khó diễn tả…..đã tới nơi rồi, Saigon thân yêu, nơi mà tôi được sanh ra và lớn lên. Vài phút nữa đây, tôi sẽ gặp lại được những khung cảnh ngày xưa nhưng không biết là mình sẽ còn nhớ gì không hay là tất cả đều xa lạ? Hành lý đã lo xong, 2 vợ chồng tôi cùng bước ra khỏi phi trường. Tôi như muốn ngộp thở vì hơi nóng, cái nóng oi bức mà dường như tôi chưa bao giờ nhận thấy, lại choáng váng vì chung quanh mình quá đông đảo, tôi nghe những tiếng gọi nhau ầm ĩ, lại toàn là tiếng Việt Nam…khung cảnh này quá xa lạ với tôi. Rồi anh Thạch chỉ tới hướng bên kia và nói nhìn thấy anh Sơn rồi. Hướng về phía mọi người đang vẫy tay, tôi cũng không nhớ rõ là có những ai, nhưng nhớ là có nhiều người đến đón. Vì phi trường quá đông người, cho nên sự gặp gỡ ban đầu thật ngắn gọn, vài lời chào hỏi, vỗ vai, cười nói, xong mọi người được phân chia ra. Sự gặp gỡ này thật ngoài sự tưởng tượng của tôi vì tôi thường nghe người ta kể lại cảnh khóc lóc khi gặp lại gia đình sau bao nhiêu năm xa cách, tôi tưởng đâu sẽ chứng kiến được người chồng mình rơi những giọt nước mắt…..
Tôi và anh Thạch được đưa lên ngồi sau chiếc taxi, phía trước có tài xế và một chàng thanh niên. Tôi bị giật mình vì nghe tiếng bấm còi, rồi không biết tại sao chung quanh mình xe nào cũng bấm còi inh ỏi kiểu này. Taxi vừa rời khỏi phi trường vài phút thì chàng thanh niên ngồi phía trước đã quay lại hỏi : “Anh Thạch biết em là ai đây không ?”, anh Thạch ngập ngừng mấy giây thì chàng thanh niên lại nói tiếp : “Em nè, em là Vũ nè!”. Tôi nhận thấy được sự ngạc nhiên của anh Thạch vì không nhận ra được đứa em út, không ngờ đã to lớn tới vậy rồi, những gì tôi nghe kể lại về Vũ chỉ dừng lại lúc Vũ 5, 6 tuổi gì đó…nghĩ đến cảnh ngộ lúc đó, tôi càng cảm thông hơn với sự nhớ nhung và trông ngóng của người chồng đã xa gia đình hơn 14 năm.
Về đến nhà trọ ở Vườn Chuối
Chiếc xe taxi đưa chúng tôi đến nhà trọ ở khu Vườn Chuối mà Quang đã chuẩn bị cho chúng tôi. Mọi người cùng theo chúng tôi về đó. Khi được đưa vào phòng, tôi còn nhớ Quang, Trinh có hỏi tôi : “Chị Quỳnh Anh có mệt không?” tôi chỉ biết cười cười thôi. Rồi ai đó ra vô phòng cũng với cùng một câu hỏi, cuối cùng thì mọi người rút lui xuống nhà dưới, bảo chúng tôi rửa mặt cho mát mẻ rồi xuống dưới chơi. Trời ơi, lúc này thì tôi chỉ muốn được yên lặng, nhảy lên giường ngủ một giấc, chớ đâu còn hơi sức mà gặp ai. Không phải vì chuyến đi xa làm tôi mệt nhưng sự thay đổi đột ngột làm tôi như bị lạc loài, bỡ ngỡ vô cùng, chỉ muốn được yên lặng để có thể trở về lại với hiện tại thôi. Biết là mình không phải nhưng cũng đành nói với anh Thạch : “Anh xuống thăm hỏi mọi người đi, em mệt lắm, ngày mai mới thăm hỏi sau”.
(Sơn: Q.Anh nhấp nhỏm lo âu vì phải làm quen với bao nhiêu người lạ trong một gia đình mới thì anh cũng nôn nao không kém, vì khi anh ra đi, các em từ Trinh trở xuống còn là con nít, mà khi anh về các em đã là những thanh niên thiếu nữ trường thành. Anh nhớ ngày đầu tiên sau khi đi đón anh Thạch và chị Q.Anh về phòng trọ ở Vườn Chuối thì mình kéo nhau đi ăn tối tại Nhà Hàng Thanh Niên. Trước khi ra xe đi ăn, mưa một trận xối xả. Lúc này Quang còn độc thân nhưng có thêm cái rờ mọc dễ thương là Chánh. Cũng trong lần này anh được gặp và làm quen với những em dâu em rể mới là Mãng, là Xuân, là Điệp và biết mặt các cháu. Nam thì chưa xuất hiện chính thức vào lúc này và Chinh Vũ hình như chưa quen nhau. Phải công nhận các dâu rể thật dễ mến và khéo ăn khéo ở !)Đi ‘xe đò cao cấp’ về Phan Thiết
Về đến Saigon chỉ mới mấy ngày mà tôi dần dần quen với tiếng ồn ào của thành phố, đã bớt giật mình khi nửa đêm nghe tiếng Việt Nam bên ngoài nhà trọ, quen với những tiếng hàng rong khi trời mới sáng, nhưng vẫn còn biết bao nhiêu ngạc nhiên khác…
Sau khi ở Saigon được vài ngày thì tôi cùng với mọi người lên đường về nhà, chặng đầu tiên là ghé ngang Phan Thiết. Sáng hôm đó, tôi còn nhớ là Giang chạy đi mua vé xe, tôi có hỏi là mình đi loại xe nào, thì nghe trả lời là loại ‘xe đò cao cấp’, có máy lạnh và TV, thoải mái lắm. Lúc mới lên xe thì thấy thoải mái thật, mỗi người một ghế, có máy lạnh đàng hoàng. Khi xe ra khỏi bến xe mới mấy cây số thì máy lạnh đã bị tắt hết, mọi người mở hết cửa sổ ra, rồi từ từ, những chiếc ghế ‘xúp’ được moi ra và mấy anh lơ xe đưa tay để đón thêm khách, thế là ‘chiếc xe đò cao cấp’ đông nghẹt người , với nào là trái cây, gà vịt cột trên mui xe, có lẽ là tôi chưa bao giờ được chứng kiến những cảnh như vậy, trên đường, nào là xe đạp, người đi bộ, xe gắn máy, xe hơi, xe đò, xe máy cày…không hiểu sao hỗn loạn như vậy mà không gây tai nạn. Chặng đường chỉ có 200 cây số đã tốn hết gần 6 tiếng mới đến nơi, khi đến nơi rửa mặt thì mới thấy mặt mình gần giống như cục than….thầm nghĩ tới ‘xe đò cao cấp’ kiểu này mà còn phải đi thêm 250 cây số nữa chắc là ‘chết chắc’.
Về nhà
Sau mấy ngày vui chơi thăm viếng thành phố Phan Thiết cùng các anh chị em, thì mọi người cùng lên đường ‘về nhà’. Cái ‘về nhà’ đây thật là mới lạ, với bao nhiêu sự hồi hộp, bồn chồn, lo lắng. Trong gia đình tôi, những anh chị lớn đã lập gia đình, đều có gia đình nhà chồng sống tại cùng thành phố, cho nên các anh chị không có được những kinh nghiệm để chia sẻ và trao đổi với tôi trước ngày tôi về nhà chồng. Những cái lo âu như làm sao xưng hô, vì cái tuổi của tôi thì nhỏ nhưng vai vế thì lại lớn. Vì đã sống ở nước ngoài lâu năm nên cách xưng hô mà tôi thường dùng trong gia đình hay với bạn bè tôi rất là giản dị : ai lớn, gọi anh gọi chi, ai nhỏ thì kêu em hay xưng tên, không phân biệt vai vế lớn nhỏ, những lúc bối rối thì dùng ‘toi, moi, you, me’ gì đó là xong. Rồi những cái lo khác như không biết mình có hiểu đủ tiếng Việt, nhất là cái giọng địa phương xa lạ với tôi, để cùng mọi người trao đổi hay không, cha mẹ và các thành viên trong gia đình không biết có sẽ hài lòng với cô con dâu mới và hoan nghinh chào đón mình hay không?
Chuyến đi từ Phan Thiết về đến nhà thật là vất vả, tôi còn nhớ rõ cái cảm giác không khác gì như cưỡi ngựa, nhất là chặng đường từ Ban Mê Thuột về Đức Minh. Với tôi, suốt đoạn đường đi toàn là những cảnh xa lạ, cảnh vật đồng quê, đất đỏ, những ngôi nhà lá đơn sơ hai bên đường, những người thợ sửa đường với đôi bàn tay thay cho máy móc v.v. Lúc nhỏ khi còn ở Việt Nam, ngoài Sàigòn, tôi thường được viếng thăm quê nội ngoại ở Đà Nẵng, đã du lịch ở Vũng Tàu, Đà Lạt và Cần Thơ, mà tôi thì không còn nhớ gì về những nơi ấy. Cho nên tôi không tưởng tượng được cái nhà, nơi mà tôi sẽ về nó sẽ ra sao, tuy là đã nghe anh Thạch kể rất nhiều về căn nhà ấy.
Ngày chúng tôi về tới nhà thì trời đã tối, cái lạ đầu tiên là căn nhà được soi sáng bằng những chiếc đèn lờ mờ… rồi mọi người xuống xe, anh em cha mẹ vui vẻ chào hỏi nhau bằng những tiếng cười, những bàn tay xiết mạnh… không có màn ‘chính thức’ giới thiệu những thành viên mới gia nhập vào gia đình, không có những màn cha mẹ ôm ấp những đứa con thân yêu đã trở về sau mười mấy năm xa cách, cũng không có những khóc lóc nhớ thương như tôi tưởng tượng….Thay vào đó, tôi đã chứng kiến được cảnh vui mừng cho cuộc đoàn tụ và sự chào đón tất cả các con trở về, bất kể từ xa hay gần, qua những cử chỉ quan tâm thay cho những lời nói….
(Giang: Chị Quỳnh Anh tưởng tượng ra nhiều “màn” thật là lãng mạn, nào là khóc lóc ở phi trường, nào là trịnh trọng giới thiệu thành viên mới ở gia đình,… quả thật là cả nhà không có những nghi lễ hoành tráng, hay những thể hiện niềm vui một cách ấn tượng và mạnh mẽ mà thay vào đó là sự chia sẻ nhẹ nhàng. Tâm trạng em hồi ấy không giống như chị Anh, chẳng hề cảm thấy băn khoăn về những nhân vật mới, những khác biệt mà mình phải đối diện, chỉ nghĩ rằng mình sẽ được gặp các anh, các chị là những người thân, đã thân thì hiểu nhau, mà đã hiểu nhau thì đâu còn cần hình thức nữa. Em rất bất ngờ khi đọc thấy tình huống Vũ hỏi anh Thạch trên xe taxi, thật là quá cẩn thận! Bởi vì em không có ý nghĩ là anh Thạch và anh Sơn không biết mặt mình.
Nói về sự ồn ào và náo nhiệt của Sài Gòn thì hiện nay nó đã ở mức kinh khủng, có thể nói là đã gần đến ngưỡng chịu đựng của con người sống! Tiếng ồn, không khí ô nhiễm, giao thông tê liệt, đường bị ngập nước là chuyện thường ngày mà những người đi lại nhiều như em phải đối diện. Riêng tiếng còi xe thì nó đã phát triển với đủ loại âm tiết khác nhau chứ không còn nghe “tin tin” như trước nữa! Tuy vậy, niềm an ủi là chị có thể chọn được những dịch vụ theo ý mình chứ không còn bị đi “xe đò cao cấp” như 15 năm về trước.)
Tuy là những ngày chung sống cùng gia đình thật ngắn ngủi, nhưng cũng đủ để cho tôi tìm được sự thân thiết với những bàn tay mở rộng đón tiếp tôi gia nhập gia đình. Cám ơn cha me, các anh chị em và các cháu đã mang lại cho tôi tình thân và sự ấm áp… để cho tôi, dù ở phương xa, luôn luôn hướng về mái nhà thân yêu…
(Chị Tuyết : Đối với Quỳnh Anh chị có hai kỷ niệm thật vắn gọn nhưng đầy ý nghĩa. Lần đầu tiên, nhỏ thôi. Chị nhớ em có gửi cho chị một lá thư, viết lúc em đã có bé Đan Thùy. Nói rằng từ khi có con, em thấy mình thay đổi hẳn tư cách. Trước đây sống hồn nhiên vô ăn vô lo thì bây giờ cảm thấy có trách nhiệm, bắt đầu biết để ý lo lắng và quán xuyến mọi việc trong gia đình. Ngày trước sống sao cũng được. Bây giờ phải đàng hoàng nghiêm chỉnh.
Là một người tu quan sát đời sống gia đình. Chị thấy Chúa dùng con cái để huấn luyện cho cha mẹ được trưởng thành trong tình yêu. Biết sống tốt hơn, sống có trách nhiệm hơn. Tập chịu đựng, tập hi sinh, biết sống không còn cho riêng mình mà lo cho mầm sống mới Chúa ban cho mình nơi con cái. Nhất là vai trò người phụ nữ trong gia đình
Thay đổi như vậy nên lần thứ hai, gặp em ở Paris, chị thấy em khác hẳn với lần đầu tiên về Việt Nam.
Lần đó hai chị em ngồi nói chuyện với nhau khá lâu ở dưới chân tháp Eiffel. Em còn nhớ không, khi hỏi em về chuyện gia đình thì câu trả lời rõ ràng của em là «gia đình rất hạnh phúc». Câu trả lời thật chân thành đơn giản mà chị chưa hề được nghe ai thốt ra một cách thanh thản đến thế. Chị thật vui mừng và sung sướng với em. Nhưng chị biết rằng để xây dựng được một tổ ấm hạnh phúc điều trước tiên là nhờ ơn Chúa nhưng đồng thời cũng cần nhiều nỗ lực cố gắng của chính mình. Cần phải học bài học yêu thương suốt cả đời.
Nghe và nhìn cách em ăn nói ứng xử với chồng con, với người ngoài, với thân tộc, chị nhận thấy Chúa ban cho em, người phụ nữ, có một khả năng thật tuyệt vời. Cám ơn em.)
Chuẩn bị cho chuyến đi
Rời Việt Nam khi tôi mới lên 12 với toàn thế gia đình, trong quá trình trưởng thành, đôi khi tôi quên hẳn mình từ đâu đến, không còn phân biệt là mình đang sống tại nước ngoài vì tôi hoàn toàn hòa mình được với cuộc sống tại Canada, cũng không có những nhớ nhung, trông ngóng hay thiết tha gì về nước Việt Nam vì cha me và anh chị em đều chung sống bên cạnh tôi mỗi ngày…cho đến khi tôi gặp anh Thạch. Anh Thạch đã đưa tôi trở về lại nguồn gốc của mình, cho tôi tìm thấy lại TÔI, một cô gái hoàn toàn Việt Nam… và từ đó, tôi đã chia sẻ được sự nhớ nhung, trông ngóng về nước Việt Nam thân yêu, trông mong một ngày hội ngộ cùng cha mẹ và các anh chị em, tuy chưa một lần gặp mặt nhưng đã rất thân thuộc qua những hình ảnh tôi được xem hay những mẩu chuyện mà anh Thạch kể lại.
Lúc chuẩn bị đám cưới, sự lựa chọn địa điểm của tuần trăng mật rất là dễ dàng vì cả hai chúng tôi đều thấy không thấy nơi đâu bằng Việt Nam để đánh dấu cho sự bắt đầu của cuộc sống mới. Trước khi lên đường, tôi đã chuẩn bị chu đáo cho cuộc gặp gỡ, xem lại nhiều hình ảnh gia đình, học thuộc tên các anh chị em và các cháu.
Kỷ niệm đầu khi đến Sàigòn
Sau hơn 35 tiếng đồng hồ từ khi rời phi trường Montréal, với 3 chặng đổi máy bay tại Toronto, Vancouver và Hồng Kông, chiếc máy bay của hãng Cathay Pacific đã đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Lòng tôi thật là hoang mang, hồi hộp, một cảm giác thật khó diễn tả…..đã tới nơi rồi, Saigon thân yêu, nơi mà tôi được sanh ra và lớn lên. Vài phút nữa đây, tôi sẽ gặp lại được những khung cảnh ngày xưa nhưng không biết là mình sẽ còn nhớ gì không hay là tất cả đều xa lạ? Hành lý đã lo xong, 2 vợ chồng tôi cùng bước ra khỏi phi trường. Tôi như muốn ngộp thở vì hơi nóng, cái nóng oi bức mà dường như tôi chưa bao giờ nhận thấy, lại choáng váng vì chung quanh mình quá đông đảo, tôi nghe những tiếng gọi nhau ầm ĩ, lại toàn là tiếng Việt Nam…khung cảnh này quá xa lạ với tôi. Rồi anh Thạch chỉ tới hướng bên kia và nói nhìn thấy anh Sơn rồi. Hướng về phía mọi người đang vẫy tay, tôi cũng không nhớ rõ là có những ai, nhưng nhớ là có nhiều người đến đón. Vì phi trường quá đông người, cho nên sự gặp gỡ ban đầu thật ngắn gọn, vài lời chào hỏi, vỗ vai, cười nói, xong mọi người được phân chia ra. Sự gặp gỡ này thật ngoài sự tưởng tượng của tôi vì tôi thường nghe người ta kể lại cảnh khóc lóc khi gặp lại gia đình sau bao nhiêu năm xa cách, tôi tưởng đâu sẽ chứng kiến được người chồng mình rơi những giọt nước mắt…..
Tôi và anh Thạch được đưa lên ngồi sau chiếc taxi, phía trước có tài xế và một chàng thanh niên. Tôi bị giật mình vì nghe tiếng bấm còi, rồi không biết tại sao chung quanh mình xe nào cũng bấm còi inh ỏi kiểu này. Taxi vừa rời khỏi phi trường vài phút thì chàng thanh niên ngồi phía trước đã quay lại hỏi : “Anh Thạch biết em là ai đây không ?”, anh Thạch ngập ngừng mấy giây thì chàng thanh niên lại nói tiếp : “Em nè, em là Vũ nè!”. Tôi nhận thấy được sự ngạc nhiên của anh Thạch vì không nhận ra được đứa em út, không ngờ đã to lớn tới vậy rồi, những gì tôi nghe kể lại về Vũ chỉ dừng lại lúc Vũ 5, 6 tuổi gì đó…nghĩ đến cảnh ngộ lúc đó, tôi càng cảm thông hơn với sự nhớ nhung và trông ngóng của người chồng đã xa gia đình hơn 14 năm.
Về đến nhà trọ ở Vườn Chuối
Chiếc xe taxi đưa chúng tôi đến nhà trọ ở khu Vườn Chuối mà Quang đã chuẩn bị cho chúng tôi. Mọi người cùng theo chúng tôi về đó. Khi được đưa vào phòng, tôi còn nhớ Quang, Trinh có hỏi tôi : “Chị Quỳnh Anh có mệt không?” tôi chỉ biết cười cười thôi. Rồi ai đó ra vô phòng cũng với cùng một câu hỏi, cuối cùng thì mọi người rút lui xuống nhà dưới, bảo chúng tôi rửa mặt cho mát mẻ rồi xuống dưới chơi. Trời ơi, lúc này thì tôi chỉ muốn được yên lặng, nhảy lên giường ngủ một giấc, chớ đâu còn hơi sức mà gặp ai. Không phải vì chuyến đi xa làm tôi mệt nhưng sự thay đổi đột ngột làm tôi như bị lạc loài, bỡ ngỡ vô cùng, chỉ muốn được yên lặng để có thể trở về lại với hiện tại thôi. Biết là mình không phải nhưng cũng đành nói với anh Thạch : “Anh xuống thăm hỏi mọi người đi, em mệt lắm, ngày mai mới thăm hỏi sau”.
(Sơn: Q.Anh nhấp nhỏm lo âu vì phải làm quen với bao nhiêu người lạ trong một gia đình mới thì anh cũng nôn nao không kém, vì khi anh ra đi, các em từ Trinh trở xuống còn là con nít, mà khi anh về các em đã là những thanh niên thiếu nữ trường thành. Anh nhớ ngày đầu tiên sau khi đi đón anh Thạch và chị Q.Anh về phòng trọ ở Vườn Chuối thì mình kéo nhau đi ăn tối tại Nhà Hàng Thanh Niên. Trước khi ra xe đi ăn, mưa một trận xối xả. Lúc này Quang còn độc thân nhưng có thêm cái rờ mọc dễ thương là Chánh. Cũng trong lần này anh được gặp và làm quen với những em dâu em rể mới là Mãng, là Xuân, là Điệp và biết mặt các cháu. Nam thì chưa xuất hiện chính thức vào lúc này và Chinh Vũ hình như chưa quen nhau. Phải công nhận các dâu rể thật dễ mến và khéo ăn khéo ở !)Đi ‘xe đò cao cấp’ về Phan Thiết
Về đến Saigon chỉ mới mấy ngày mà tôi dần dần quen với tiếng ồn ào của thành phố, đã bớt giật mình khi nửa đêm nghe tiếng Việt Nam bên ngoài nhà trọ, quen với những tiếng hàng rong khi trời mới sáng, nhưng vẫn còn biết bao nhiêu ngạc nhiên khác…
Sau khi ở Saigon được vài ngày thì tôi cùng với mọi người lên đường về nhà, chặng đầu tiên là ghé ngang Phan Thiết. Sáng hôm đó, tôi còn nhớ là Giang chạy đi mua vé xe, tôi có hỏi là mình đi loại xe nào, thì nghe trả lời là loại ‘xe đò cao cấp’, có máy lạnh và TV, thoải mái lắm. Lúc mới lên xe thì thấy thoải mái thật, mỗi người một ghế, có máy lạnh đàng hoàng. Khi xe ra khỏi bến xe mới mấy cây số thì máy lạnh đã bị tắt hết, mọi người mở hết cửa sổ ra, rồi từ từ, những chiếc ghế ‘xúp’ được moi ra và mấy anh lơ xe đưa tay để đón thêm khách, thế là ‘chiếc xe đò cao cấp’ đông nghẹt người , với nào là trái cây, gà vịt cột trên mui xe, có lẽ là tôi chưa bao giờ được chứng kiến những cảnh như vậy, trên đường, nào là xe đạp, người đi bộ, xe gắn máy, xe hơi, xe đò, xe máy cày…không hiểu sao hỗn loạn như vậy mà không gây tai nạn. Chặng đường chỉ có 200 cây số đã tốn hết gần 6 tiếng mới đến nơi, khi đến nơi rửa mặt thì mới thấy mặt mình gần giống như cục than….thầm nghĩ tới ‘xe đò cao cấp’ kiểu này mà còn phải đi thêm 250 cây số nữa chắc là ‘chết chắc’.
Về nhà
Sau mấy ngày vui chơi thăm viếng thành phố Phan Thiết cùng các anh chị em, thì mọi người cùng lên đường ‘về nhà’. Cái ‘về nhà’ đây thật là mới lạ, với bao nhiêu sự hồi hộp, bồn chồn, lo lắng. Trong gia đình tôi, những anh chị lớn đã lập gia đình, đều có gia đình nhà chồng sống tại cùng thành phố, cho nên các anh chị không có được những kinh nghiệm để chia sẻ và trao đổi với tôi trước ngày tôi về nhà chồng. Những cái lo âu như làm sao xưng hô, vì cái tuổi của tôi thì nhỏ nhưng vai vế thì lại lớn. Vì đã sống ở nước ngoài lâu năm nên cách xưng hô mà tôi thường dùng trong gia đình hay với bạn bè tôi rất là giản dị : ai lớn, gọi anh gọi chi, ai nhỏ thì kêu em hay xưng tên, không phân biệt vai vế lớn nhỏ, những lúc bối rối thì dùng ‘toi, moi, you, me’ gì đó là xong. Rồi những cái lo khác như không biết mình có hiểu đủ tiếng Việt, nhất là cái giọng địa phương xa lạ với tôi, để cùng mọi người trao đổi hay không, cha mẹ và các thành viên trong gia đình không biết có sẽ hài lòng với cô con dâu mới và hoan nghinh chào đón mình hay không?
Chuyến đi từ Phan Thiết về đến nhà thật là vất vả, tôi còn nhớ rõ cái cảm giác không khác gì như cưỡi ngựa, nhất là chặng đường từ Ban Mê Thuột về Đức Minh. Với tôi, suốt đoạn đường đi toàn là những cảnh xa lạ, cảnh vật đồng quê, đất đỏ, những ngôi nhà lá đơn sơ hai bên đường, những người thợ sửa đường với đôi bàn tay thay cho máy móc v.v. Lúc nhỏ khi còn ở Việt Nam, ngoài Sàigòn, tôi thường được viếng thăm quê nội ngoại ở Đà Nẵng, đã du lịch ở Vũng Tàu, Đà Lạt và Cần Thơ, mà tôi thì không còn nhớ gì về những nơi ấy. Cho nên tôi không tưởng tượng được cái nhà, nơi mà tôi sẽ về nó sẽ ra sao, tuy là đã nghe anh Thạch kể rất nhiều về căn nhà ấy.
Ngày chúng tôi về tới nhà thì trời đã tối, cái lạ đầu tiên là căn nhà được soi sáng bằng những chiếc đèn lờ mờ… rồi mọi người xuống xe, anh em cha mẹ vui vẻ chào hỏi nhau bằng những tiếng cười, những bàn tay xiết mạnh… không có màn ‘chính thức’ giới thiệu những thành viên mới gia nhập vào gia đình, không có những màn cha mẹ ôm ấp những đứa con thân yêu đã trở về sau mười mấy năm xa cách, cũng không có những khóc lóc nhớ thương như tôi tưởng tượng….Thay vào đó, tôi đã chứng kiến được cảnh vui mừng cho cuộc đoàn tụ và sự chào đón tất cả các con trở về, bất kể từ xa hay gần, qua những cử chỉ quan tâm thay cho những lời nói….
(Giang: Chị Quỳnh Anh tưởng tượng ra nhiều “màn” thật là lãng mạn, nào là khóc lóc ở phi trường, nào là trịnh trọng giới thiệu thành viên mới ở gia đình,… quả thật là cả nhà không có những nghi lễ hoành tráng, hay những thể hiện niềm vui một cách ấn tượng và mạnh mẽ mà thay vào đó là sự chia sẻ nhẹ nhàng. Tâm trạng em hồi ấy không giống như chị Anh, chẳng hề cảm thấy băn khoăn về những nhân vật mới, những khác biệt mà mình phải đối diện, chỉ nghĩ rằng mình sẽ được gặp các anh, các chị là những người thân, đã thân thì hiểu nhau, mà đã hiểu nhau thì đâu còn cần hình thức nữa. Em rất bất ngờ khi đọc thấy tình huống Vũ hỏi anh Thạch trên xe taxi, thật là quá cẩn thận! Bởi vì em không có ý nghĩ là anh Thạch và anh Sơn không biết mặt mình.
Nói về sự ồn ào và náo nhiệt của Sài Gòn thì hiện nay nó đã ở mức kinh khủng, có thể nói là đã gần đến ngưỡng chịu đựng của con người sống! Tiếng ồn, không khí ô nhiễm, giao thông tê liệt, đường bị ngập nước là chuyện thường ngày mà những người đi lại nhiều như em phải đối diện. Riêng tiếng còi xe thì nó đã phát triển với đủ loại âm tiết khác nhau chứ không còn nghe “tin tin” như trước nữa! Tuy vậy, niềm an ủi là chị có thể chọn được những dịch vụ theo ý mình chứ không còn bị đi “xe đò cao cấp” như 15 năm về trước.)
Tuy là những ngày chung sống cùng gia đình thật ngắn ngủi, nhưng cũng đủ để cho tôi tìm được sự thân thiết với những bàn tay mở rộng đón tiếp tôi gia nhập gia đình. Cám ơn cha me, các anh chị em và các cháu đã mang lại cho tôi tình thân và sự ấm áp… để cho tôi, dù ở phương xa, luôn luôn hướng về mái nhà thân yêu…
(Chị Tuyết : Đối với Quỳnh Anh chị có hai kỷ niệm thật vắn gọn nhưng đầy ý nghĩa. Lần đầu tiên, nhỏ thôi. Chị nhớ em có gửi cho chị một lá thư, viết lúc em đã có bé Đan Thùy. Nói rằng từ khi có con, em thấy mình thay đổi hẳn tư cách. Trước đây sống hồn nhiên vô ăn vô lo thì bây giờ cảm thấy có trách nhiệm, bắt đầu biết để ý lo lắng và quán xuyến mọi việc trong gia đình. Ngày trước sống sao cũng được. Bây giờ phải đàng hoàng nghiêm chỉnh.
Là một người tu quan sát đời sống gia đình. Chị thấy Chúa dùng con cái để huấn luyện cho cha mẹ được trưởng thành trong tình yêu. Biết sống tốt hơn, sống có trách nhiệm hơn. Tập chịu đựng, tập hi sinh, biết sống không còn cho riêng mình mà lo cho mầm sống mới Chúa ban cho mình nơi con cái. Nhất là vai trò người phụ nữ trong gia đình
Thay đổi như vậy nên lần thứ hai, gặp em ở Paris, chị thấy em khác hẳn với lần đầu tiên về Việt Nam.
Lần đó hai chị em ngồi nói chuyện với nhau khá lâu ở dưới chân tháp Eiffel. Em còn nhớ không, khi hỏi em về chuyện gia đình thì câu trả lời rõ ràng của em là «gia đình rất hạnh phúc». Câu trả lời thật chân thành đơn giản mà chị chưa hề được nghe ai thốt ra một cách thanh thản đến thế. Chị thật vui mừng và sung sướng với em. Nhưng chị biết rằng để xây dựng được một tổ ấm hạnh phúc điều trước tiên là nhờ ơn Chúa nhưng đồng thời cũng cần nhiều nỗ lực cố gắng của chính mình. Cần phải học bài học yêu thương suốt cả đời.
Nghe và nhìn cách em ăn nói ứng xử với chồng con, với người ngoài, với thân tộc, chị nhận thấy Chúa ban cho em, người phụ nữ, có một khả năng thật tuyệt vời. Cám ơn em.)
Con nhà tông
… không giống lông cũng giống cánh.
Cha rất giỏi về nhạc và thể thao. Khi còn nhỏ, trong làng, cha với các bác là những cầu thủ bóng tròn sáng giá. Chú Bích kể lại rằng cha với các bác dẫn banh đi khắp sân, vượt qua hàng phòng vệ, có khi rách cả áo mà người và banh vẫn lọt qua dễ dàng. Trong các trận đấu, mỗi lần anh em trong nhà đón được banh thì niềm hy vọng làm bàn lại dậy lên. Vào thời buổi mà tân nhạc du nhập từ Tây phương còn lạ lẫm mới mẻ, vì trong xã hội vẫn còn thịnh hành loại nhạc ngũ cung của Trung Hoa, thì cha đã biết tìm hiểu nghiên cứu để có những kiến thức căn bản về nhạc mới này. Không những chỉ biết nhạc lý mà cha còn chơi được một số nhạc cụ khác nữa như vĩ cầm, phong cầm … Còn mẹ là giọng hát hay nổi tiếng của xứ. Vì thế cho nên con cái sinh ra ai cũng có cái máu âm nhạc và thể thao tự nhiên trong người.
Về âm nhạc thì anh nhớ là mỗi tối, sau khi ăn cơm và tắm rửa xong rồi đọc kinh, là được cha tập cho một vài câu trong bài hát. Hai chị em ngồi trên giường, cha hát, rồi mình hát theo. Những bài như “Anh nghe chăng cung kèn rạng đông …” hay là “Đồng một lòng chúng ta cố chèo …” đã đi vào giấc ngủ và in hằn trong ký ức tuổi thơ. Độc đáo nhất là bài “Vừng dương đang gieo vàng trên sông núi …”. Sau này lớn lên, có những điều quên hết, nhưng những bài hát đã được cha tập cho vào lúc 3 hay 4 tuổi thì vẫn còn nhớ. Số bài hát tăng dần và biến đổi theo thời gian. Khi trường ca Con đường cái quan của Phạm Duy xuất bản, ít người ở ngoài biết đến nó, vì trường ca này thuộc loại nhạc khó thưởng thức. Cha đã đi Sài gòn mua về và hát ở nhà, nên con cái đứa nào cũng hát theo và thuộc lòng nhiều đoạn.
(Thạch : Có một ngày, hình như chị Tuyết và anh Sơn còn ở nhà, cha mua về một cuốn sách hát có tên là KH, của Vinh Hạnh, bìa có hình nhiều cái bong bóng đủ màu, và cha bắt đầu tập cho mấy chị em hát. Có những bài như “Nhà em có một vườn rau”, “Đại bác bắn làm sao”, “Cái bi dòn dòn”,…
Và hình như sau đó không lâu thì cha mua về một cái đàn mandoline, ba chị em thay nhau tập gảy đàn nhưng sau một thời gian thì chị Tuyết và anh Sơn có vẻ không hứng thú lắm, tôi thì mày mò giỏi hơn nên sau một thời gian thì bắt đầu đánh được theo những bài mình biết hát.
Buổi tối cha thường nằm trên giường chơi trò kẹp mấy đứa con : cha nằm chống chân lên cho có chỗ hổng, mấy đứa rán chui qua nhưng đừng để bị cha kẹp lại. Cũng những buổi tối như thế, cha đánh đàn và hát mấy bài như “Hòn vọng phu”, “Hà nhật quân tái lai”, “Trời hồng hồng, sáng trong trong”, “Giáo đường in bóng”
Thỉnh thoảng cha lấy xe đạp chở lên vườn hoa chơi, nơi ấy hình như cũng chỉ có mấy cây cầu tuột nhưng vẫn thích đi vì có lúc được ăn một cái kẹo bạc hà the the. Đi xe thì anh Sơn ngồi phía sau, tôi phải ngồi trên ghi-đông, quay mặt về phía sau, mới đầu thì sợ lắm nhưng từ từ rồi quen….) (Chị Tuyết: Có một lần sau bữa cơm chiều cha chở ba chị em Tuyết Sơn Thạch lên tỉnh chơi bằng xe đạp. Măt trời đã nhắm mắt đi ngủ nhường chỗ cho các vì sao. Hai bên đường không có cột đèn chiếu sáng nên cha phải thận trọng lắm để tránh những ổ gà trên mặt đường. Thạch thì ngồi trên ghi đông xe. Sơn nếu không ở phía sau với chị Tuyết thì thu gọn ngườiở phía trước giữa cái yên và thân xe đạp. Bốn cha con đang lò dò trong bóng tối như vậy thì chợt có tiếng xe gắn máy (thời ấy chưa có Honda lịch sự như bây giờ) trờ tới phía sau, bóng đèn vàng vọt chiếu sáng trên mặt đường. Thế là cha vội vàng tăng tốc chay đua với xe gắn máy. Ba chị em khoái chí reo lên hào hứng với cuộc đua tài bất ngờ không ngang sức đó. Xe đạp của bốn cha con, dưới tay lái rành nghề và đôi chân mạnh mẽ của cha vọt nhanh lên như gió đồng thời lúc lắc và chao đảo không ngừng theo nhịp vận chuyển tốc hành của đôi chân “lực sĩ.”. Thạch sợ là phải thôi, và phải bám cho thật chặt kẻo mà văng xuống đất ! Còn cha vẫn bình tĩnh tập trung và tiếp tục lèo lái một cách tài tình. Cha tranh thủ ánh sáng của xe gắn máy để lao nhanh một đoạn đường, cho đến khi bị xe ấy qua mặt và bỏ lại sau lưng thì mới trở lại vận tốc bình thường.
Sau đó thì hình như lên tỉnh được ăn cà rem thì phải ! Hoan hô cha mình !!! Ôi những ngày xưa thân ái !!!)
(Trinh : Đến thời của em thì 4 cha con (Phong , Trinh , Nguyên với cha) không đi trên chiếc xe đạp nữa mà trên chiếc xe 67 (honda đen) thường thường chủ nhật nào cha cũng chở đi chơi , hay đi với chú Bích khi thì đi lên Phú Long xem ruộng lúa, khi thì đi Sở Muối , khi thì đi chùa Giác Hoa. Em thường ngồi phía trước bình xăng , hai tay chống lên bình xăng , lâu lâu bị trật tay cha lại tưởng em ngủ gục. Có lần cha chở 3 anh em đi mua đậu xanh và nếp cho mẹ, vào cửa hàng tạp hóa có cái cân bàn cha kêu lên cân lần lượt anh Phong nặng 20 kg , Trinh nặng 15 kg và Nguyên cũng nặng 15 kg, đó là lần đầu tiên em thấy cái cân bàn vì trước đây chỉ thấy cái cân xách tay.)
Những bài hát thì được cha mẹ tập cho, nhưng còn giọng hát thì không ai tập tành gì cả, vì nó tự nhiên. Giọng của các anh chị em trong nhà không phải là một giọng mạnh, nhưng nó êm và với một chút luyện tập thì nó có thể luyến láy và rung ở cuối như những ca sĩ chuyên nghiệp. Anh đã có duyên hát hò với sân khấu từ lúc học lớp ba, đó là vào năm 1961, Tết Trung Thu. Trường tổ chức Văn Nghệ nên anh đã xung phong lên đơn ca một bài. Anh quên tên bài hát nhưng trong đó có câu : “Đêm nay trăng sáng xuống làng, em ra trước cửa em ngồi đón trăng …”. Anh đã hát thử cho thầy giáo và ban tổ chức, và ai cũng thấy hay và thích lắm. Anh cũng hát thử trong lớp, trước mặt các bạn, và hoàn toàn bình thường. Nhưng đến buổi tối trình diễn thì bị trục trặc kỹ thuật vì chạy chơi ngoài gió suốt buổi chiều anh bị cảm, khan tiếng, giọng tịt cứng nói không ra tiếng luôn. Nói còn không được thì hát hò làm sao. Lên cầm micro ò e hai ba câu rồi đi xuống.
Đến khi vô TCV thì các bạn trong lớp làm áp lực để anh ghi tên tuyển lựa ca sĩ, anh hát bài “Đã bao năm rồi không về miền Trung thăm người em …” và đứng thứ hai. Điều thú vị mà anh khám phá ra sau này trong những lần về thăm nhà có dịp hát karaoke, đó là giọng của anh với giọng của Phong giống nhau cách kỳ lạ. Âm sắc và âm vực hoàn toàn như một, đến nỗi trong một bài hát hai người đổi micro cho nhau, người khác không nhận ra. Và Phong cũng đã từng tham dự thi hát ở TCV Thủ đức với bài “Hai mùa mưa” mà anh không nhớ là Phong đã được thứ mấy.
Tiếp tục với truyền thống hát hò và trình diễn của gia đình sau này có Nguyên. Giọng Nguyên dường như khỏe hơn và cách hát cũng linh động hơn. Các em Thạch, Vân, Trinh, Giang đều là những người hát giỏi vì anh đã có dịp nghe hoặc hát chung, riêng Quang và Thủy thì anh chưa có dịp thưởng thức tài năng !
(Giang: Trong vai trò người đệm đàn, em không thấy ai hát hay bằng anh Nguyên cả, vừa truyền cảm vừa say mê đúng chất nghệ sĩ, luôn trung thành với phong cách uyển chuyển khoan thai, đệm đờn cho anh Nguyên hát là đã nhất. Một giọng ca mới nổi là Vũ, tuổi nhỏ ít nghe Vũ hát nhưng từ khi có con thì hát rất khỏe. Chị Trinh có giọng tốt nhưng em thấy hát không tập trung, đặc biệt với những bài dài. Bản thân em có dịp hát ở cuộc thi phong trào Sở Y Tế mới biết mình sở hữu một thanh quản không tốt, giọng hát yếu. Dù sao thì với vốn liếng trời cho, mấy anh chị em trong nhà mình chẳng có tập luyện gì cũng đều diễn văn nghệ được hết. Thật may mắn vì âm nhạc là niềm vui của em, chứ không phải cờ bạc hay một thứ gì khác, bởi vậy anh Sơn tưởng tượng em đã từng đau khổ như thế nào khi có người muốn ngăn cản và xem văn nghệ là mất thời gian, là vô ích.)
(Phong: Lúc ở Phan Thiết, có dịp nói chuyện với cha Hiên, là bạn học cùng lớp với cha mình lúc ở chủng viện, em mới biết đến tài đá banh của cha. Các anh em trai mình ai cũng được hưởng gien di truyền của cha về thể thao. Không xuất sắc và có đủ điều kiện để theo con đường chuyên nghiệp nhưng đủ để chơi nghiệp dư và rèn luyện thân thể. Từ lúc học lớp 6, lớp 7 em đã được vào đội tuyển bóng rổ của chủng viện, đã từng thi đấu với đội tuyển của trường Lasan. Sau giải phóng không có điều kiện chơi bóng rổ nữa, em chơi bóng chuyền. Khi đi học, vào đội tuyển bóng chuyền của trường, đi thi đấu với các đội của trường khác trong các dịp hội thể thao. Ra làm việc cũng vào đội bóng chuyền của Công ty để tham gia các giải phong trào. Bóng bàn, cầu lông, quần vợt môn nào cũng tập chơi và đều chơi được. Điều quan trọng là mình thấy ham thích cộng với chút năng khiếu có sẵn là mình tập chơi được dễ dàng không phải tốn thời gian đi học.
Nói về máu âm nhạc thì đúng là anh chị em trong nhà ai cũng có, đặc biệt là các anh em trai. Trong 6 anh em trai, ngoài Vũ ra, ai cũng có thể chơi được ít nhất một loại nhạc cụ đạt trình độ có thể tự đệm cho mình, cho người khác hát. Không biết các anh em khác có phải theo học thầy hay không, chứ em thì chỉ tự học. Năm học lớp 7 là đã rất thích đánh đàn ghi ta nhưng không có đàn nên phải mượn đàn của đứa bạn để tập chơi từ đó. Em cũng đã có tập chơi mandoline, vĩ cầm, phong cầm, khẩu cầm nhung chỉ ở mức độ bập bẹ. Nguyên rất tài: ngoài guitar còn có thể chơi tốt kèn trompet, accordéon, vĩ cầm. Về giọng hát thì đúng như Giang nói, nhà mình không có được giọng hát khỏe, chỉ đẹp, trầm ấm, nghe rất truyền cảm. Giọng hát này chỉ đủ để thỏa mãn niềm vui cho mình và cho những người yêu thích âm nhạc chứ chưa làm ca sĩ được. Năm 17,18 tuổi khi được xem chương trình ca nhạc của đoàn Quê hương (do Duy Khánh thành lập và là ca sĩ chính), em mê quá chừng và ước mơ mình cũng được biểu diễn trên sân khấu. Khi đi học ở chủng viện các anh lớn thấy em có giọng hát hay nên tập cho hát để thi ca sĩ chứ em không chủ động. Lúc đầu tập bài Roméo et Juliette hát bằng tiếng Pháp nhưng sau không hiểu sao lại đổi thành bài Hai mùa mưa. Lần đó em được đứng thứ nhì. Giọng hát mình ngày càng điêu luyện do mình được hát nhiều trong ca đoàn. Ba năm trong chủng viện em hát bè soprano. Sau giải phóng em hát bè bass ở ca đoàn lớn, phụ trách tập hát cho ca đoàn nhỏ. Đi học thì phụ trách văn nghệ của lớp, tập hát cho lớp trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ, tập hát cho đội văn nghệ của lớp để tham gia hội diễn. Khi đi làm cũng vào đội văn nghệ của Công ty, tham gia hội diễn nghệ thuật quần chúng, đi biểu diễn một vài nơi trong Tỉnh. Vì thiếu tự tin nên em rất ít khi đơn ca, chỉ hát hợp ca và đánh đàn guitar bass trong ban nhạc. Mỗi lần về nhà dịp nghỉ hè, nghỉ tết lại thấy anh Sơn, anh Thạch ôm đàn hát đủ thứ bài. Em nhớ anh Sơn hay hát các bài như: Coupable, Cuộc tình ngày đó...Hai năm tình lận đận, anh Thạch thì hay hát bài: The house, Gửi hồn trong băng giá...., các bài hát của Nguyễn Trung Cang...Có một lần ở Đắc Min, Sơn-Thạch-Phong đã tập một số bài và đi trình tấu tam ca ở nhà ông Thư.)
(Sơn: Anh cũng không quên được những hát hò vui đùa giữa 3 anh em trên căn gác ở Xã Đoài - Đức Minh, và những lần đi “trình diễn” trên nhà ông bà Thư vào các ngày chúa nhật dịp Phong về nghỉ hè. Bài hát đặc biệt nhất mà 3 cô gái con ông Thư rất thích, đó là bài Quê Hương: “thuở còn thơ, ngày 2 buổi đến trường …” mà bây giờ anh chỉ còn nhớ lõm bõm vài chữ)
(Chị Tuyết : Liên quan đến chuyện ca hát chị còn nhớ hai kỷ niệm không mấy phấn khởi liên quan đến cha :
Một là bị chê !
Đó là lúc cha còn phụ trách ca đoàn ở Vinh Thuỷ. Khoảng tám chín tuổi gì đó, chị cũng được đi theo tập hát với cha. Trong giờ tập hát, dưới bóng đèn dầu lờ mờ trong nhà xứ, cha đề nghị mỗi ca viên hát lên một đoạn nhạc để xem trúng sai hoặc hay dở như thế nào. Đến phiên chị, hát xong, cha chê là hát dở quá ! Chị nhớ chị Huy có giọng hát hay. Thật sự lúc ấy cảm thức về âm nhạc của chị chưa phát triển nên hát dở là phải lắm ! Có lẽ vì thiếu động lực tâm lý nên lúc còn ở nhà chị không tha thiết lắm đến việc ca hát mặc dù vẫn thuộc các bản nhạc mà cha thường hát. Sáng sớm thức dậy là đã nghe cha hát rồi!
Sau này khi vào Dòng. Trong giờ học nhạc lý. Chị rất thích môn xướng âm và đánh nhịp. Biết mình có khiếu về nhạc, từ đó cảm thức về âm nhạc nơi con mới bắt đầu phát triển. Rất thích chơi đàn nhưng không có điều kiện để tập luyện và phát triển như phái nam nên đành từ bỏ ước mơ ! Hơn nữa, thanh quản của chị yếu nên rất dễ đau và mất tiếng. Tập hát thì được nhưng đến ngày lễ thì khản tịt cả cổ không hát được nữa. Chán ơi là chán ! Rồi đến lúc nhà dòng cho đi học nhạc vào năm 1982 ở Sài Gòn thì lại bị phát bệnh basodow, bị viêm họng thường xuyên nên không thu thập đươc chi nhiều. Phải chăng có nợ mà chẳng được nên duyên !
Hai là bị cấm !
Bắt đầu cảm được cái đẹp trong âm nhạc. Mặc dù đi tu chị vẫn thích những bản tình ca. Chị bắt đầu chép bài hát có nốt nhạc và vẽ vời mơ mộng ! Về nhà, cha nghe, liền cấm không được hát. Cụt hứng ! Cha có biết đâu, hát một bản tình ca vì cảm cái đẹp nơi giòng nhạc và ý thơ chứ đâu phải vì mơ mộng tình cảm . . . theo anh chàng nào ! Thì thôi vậy. Nhưng cho đến bây giờ, hình như một ít những bản tình ca chép tay ngày nào còn trẻ vẫn còn đâu dưới đáy rương ! (Sơn: như vậy là chị bị xui. Em cũng bị cha cấm, và thường xuyên nhắc nhở là lo học hành, nhưng cha đâu có ở bên cạnh mà canh mình mãi được, nên hễ có bài nào hay là em kẻ nhạc chép lại để dành làm thành sưu tập. Em có một tập nhạc dày, chép tay rất công phu trong suốt thời gian trung học, mà vì vượt biên nên đành bỏ lại, rồi mất luôn. Một bài hát có nhạc điệu lôi cuốn thì tự nhiên mình thích, bất kể lời nó ra sao. Em nhớ sau này khi Thạch bắt đầu đi học ở TCV Sao biển, cũng bắt đầu chép và sưu tầm nhạc như em vây.)
Bù lại chị để hết tâm hồn vào việc hát Thánh ca. Giọng ca không khoẻ nhưng rất truyền cảm, có hồn, chị thường tập hát và điều khiển ca đoàn. Đó là công việc mà chị làm không biết mệt và đều để lại những ấn tượng tốt đẹp ở những nơi đã phục vụ.
Chị đề nghị ngày mọi người sum họp để mừng lễ cha mẹ nên tổ chức những buổi ca nhạc và hoà tấu cây nhà lá vườn. Cây violon của cha đã bị thất lạc mất rồi, chắc phải mượn hoặc mướn cho cha cây khác để cha làm sống lại những ngày còn xuân.)
Cha rất giỏi về nhạc và thể thao. Khi còn nhỏ, trong làng, cha với các bác là những cầu thủ bóng tròn sáng giá. Chú Bích kể lại rằng cha với các bác dẫn banh đi khắp sân, vượt qua hàng phòng vệ, có khi rách cả áo mà người và banh vẫn lọt qua dễ dàng. Trong các trận đấu, mỗi lần anh em trong nhà đón được banh thì niềm hy vọng làm bàn lại dậy lên. Vào thời buổi mà tân nhạc du nhập từ Tây phương còn lạ lẫm mới mẻ, vì trong xã hội vẫn còn thịnh hành loại nhạc ngũ cung của Trung Hoa, thì cha đã biết tìm hiểu nghiên cứu để có những kiến thức căn bản về nhạc mới này. Không những chỉ biết nhạc lý mà cha còn chơi được một số nhạc cụ khác nữa như vĩ cầm, phong cầm … Còn mẹ là giọng hát hay nổi tiếng của xứ. Vì thế cho nên con cái sinh ra ai cũng có cái máu âm nhạc và thể thao tự nhiên trong người.
Về âm nhạc thì anh nhớ là mỗi tối, sau khi ăn cơm và tắm rửa xong rồi đọc kinh, là được cha tập cho một vài câu trong bài hát. Hai chị em ngồi trên giường, cha hát, rồi mình hát theo. Những bài như “Anh nghe chăng cung kèn rạng đông …” hay là “Đồng một lòng chúng ta cố chèo …” đã đi vào giấc ngủ và in hằn trong ký ức tuổi thơ. Độc đáo nhất là bài “Vừng dương đang gieo vàng trên sông núi …”. Sau này lớn lên, có những điều quên hết, nhưng những bài hát đã được cha tập cho vào lúc 3 hay 4 tuổi thì vẫn còn nhớ. Số bài hát tăng dần và biến đổi theo thời gian. Khi trường ca Con đường cái quan của Phạm Duy xuất bản, ít người ở ngoài biết đến nó, vì trường ca này thuộc loại nhạc khó thưởng thức. Cha đã đi Sài gòn mua về và hát ở nhà, nên con cái đứa nào cũng hát theo và thuộc lòng nhiều đoạn.
(Thạch : Có một ngày, hình như chị Tuyết và anh Sơn còn ở nhà, cha mua về một cuốn sách hát có tên là KH, của Vinh Hạnh, bìa có hình nhiều cái bong bóng đủ màu, và cha bắt đầu tập cho mấy chị em hát. Có những bài như “Nhà em có một vườn rau”, “Đại bác bắn làm sao”, “Cái bi dòn dòn”,…
Và hình như sau đó không lâu thì cha mua về một cái đàn mandoline, ba chị em thay nhau tập gảy đàn nhưng sau một thời gian thì chị Tuyết và anh Sơn có vẻ không hứng thú lắm, tôi thì mày mò giỏi hơn nên sau một thời gian thì bắt đầu đánh được theo những bài mình biết hát.
Buổi tối cha thường nằm trên giường chơi trò kẹp mấy đứa con : cha nằm chống chân lên cho có chỗ hổng, mấy đứa rán chui qua nhưng đừng để bị cha kẹp lại. Cũng những buổi tối như thế, cha đánh đàn và hát mấy bài như “Hòn vọng phu”, “Hà nhật quân tái lai”, “Trời hồng hồng, sáng trong trong”, “Giáo đường in bóng”
Thỉnh thoảng cha lấy xe đạp chở lên vườn hoa chơi, nơi ấy hình như cũng chỉ có mấy cây cầu tuột nhưng vẫn thích đi vì có lúc được ăn một cái kẹo bạc hà the the. Đi xe thì anh Sơn ngồi phía sau, tôi phải ngồi trên ghi-đông, quay mặt về phía sau, mới đầu thì sợ lắm nhưng từ từ rồi quen….) (Chị Tuyết: Có một lần sau bữa cơm chiều cha chở ba chị em Tuyết Sơn Thạch lên tỉnh chơi bằng xe đạp. Măt trời đã nhắm mắt đi ngủ nhường chỗ cho các vì sao. Hai bên đường không có cột đèn chiếu sáng nên cha phải thận trọng lắm để tránh những ổ gà trên mặt đường. Thạch thì ngồi trên ghi đông xe. Sơn nếu không ở phía sau với chị Tuyết thì thu gọn ngườiở phía trước giữa cái yên và thân xe đạp. Bốn cha con đang lò dò trong bóng tối như vậy thì chợt có tiếng xe gắn máy (thời ấy chưa có Honda lịch sự như bây giờ) trờ tới phía sau, bóng đèn vàng vọt chiếu sáng trên mặt đường. Thế là cha vội vàng tăng tốc chay đua với xe gắn máy. Ba chị em khoái chí reo lên hào hứng với cuộc đua tài bất ngờ không ngang sức đó. Xe đạp của bốn cha con, dưới tay lái rành nghề và đôi chân mạnh mẽ của cha vọt nhanh lên như gió đồng thời lúc lắc và chao đảo không ngừng theo nhịp vận chuyển tốc hành của đôi chân “lực sĩ.”. Thạch sợ là phải thôi, và phải bám cho thật chặt kẻo mà văng xuống đất ! Còn cha vẫn bình tĩnh tập trung và tiếp tục lèo lái một cách tài tình. Cha tranh thủ ánh sáng của xe gắn máy để lao nhanh một đoạn đường, cho đến khi bị xe ấy qua mặt và bỏ lại sau lưng thì mới trở lại vận tốc bình thường.
Sau đó thì hình như lên tỉnh được ăn cà rem thì phải ! Hoan hô cha mình !!! Ôi những ngày xưa thân ái !!!)
(Trinh : Đến thời của em thì 4 cha con (Phong , Trinh , Nguyên với cha) không đi trên chiếc xe đạp nữa mà trên chiếc xe 67 (honda đen) thường thường chủ nhật nào cha cũng chở đi chơi , hay đi với chú Bích khi thì đi lên Phú Long xem ruộng lúa, khi thì đi Sở Muối , khi thì đi chùa Giác Hoa. Em thường ngồi phía trước bình xăng , hai tay chống lên bình xăng , lâu lâu bị trật tay cha lại tưởng em ngủ gục. Có lần cha chở 3 anh em đi mua đậu xanh và nếp cho mẹ, vào cửa hàng tạp hóa có cái cân bàn cha kêu lên cân lần lượt anh Phong nặng 20 kg , Trinh nặng 15 kg và Nguyên cũng nặng 15 kg, đó là lần đầu tiên em thấy cái cân bàn vì trước đây chỉ thấy cái cân xách tay.)
Những bài hát thì được cha mẹ tập cho, nhưng còn giọng hát thì không ai tập tành gì cả, vì nó tự nhiên. Giọng của các anh chị em trong nhà không phải là một giọng mạnh, nhưng nó êm và với một chút luyện tập thì nó có thể luyến láy và rung ở cuối như những ca sĩ chuyên nghiệp. Anh đã có duyên hát hò với sân khấu từ lúc học lớp ba, đó là vào năm 1961, Tết Trung Thu. Trường tổ chức Văn Nghệ nên anh đã xung phong lên đơn ca một bài. Anh quên tên bài hát nhưng trong đó có câu : “Đêm nay trăng sáng xuống làng, em ra trước cửa em ngồi đón trăng …”. Anh đã hát thử cho thầy giáo và ban tổ chức, và ai cũng thấy hay và thích lắm. Anh cũng hát thử trong lớp, trước mặt các bạn, và hoàn toàn bình thường. Nhưng đến buổi tối trình diễn thì bị trục trặc kỹ thuật vì chạy chơi ngoài gió suốt buổi chiều anh bị cảm, khan tiếng, giọng tịt cứng nói không ra tiếng luôn. Nói còn không được thì hát hò làm sao. Lên cầm micro ò e hai ba câu rồi đi xuống.
Đến khi vô TCV thì các bạn trong lớp làm áp lực để anh ghi tên tuyển lựa ca sĩ, anh hát bài “Đã bao năm rồi không về miền Trung thăm người em …” và đứng thứ hai. Điều thú vị mà anh khám phá ra sau này trong những lần về thăm nhà có dịp hát karaoke, đó là giọng của anh với giọng của Phong giống nhau cách kỳ lạ. Âm sắc và âm vực hoàn toàn như một, đến nỗi trong một bài hát hai người đổi micro cho nhau, người khác không nhận ra. Và Phong cũng đã từng tham dự thi hát ở TCV Thủ đức với bài “Hai mùa mưa” mà anh không nhớ là Phong đã được thứ mấy.
Tiếp tục với truyền thống hát hò và trình diễn của gia đình sau này có Nguyên. Giọng Nguyên dường như khỏe hơn và cách hát cũng linh động hơn. Các em Thạch, Vân, Trinh, Giang đều là những người hát giỏi vì anh đã có dịp nghe hoặc hát chung, riêng Quang và Thủy thì anh chưa có dịp thưởng thức tài năng !
(Giang: Trong vai trò người đệm đàn, em không thấy ai hát hay bằng anh Nguyên cả, vừa truyền cảm vừa say mê đúng chất nghệ sĩ, luôn trung thành với phong cách uyển chuyển khoan thai, đệm đờn cho anh Nguyên hát là đã nhất. Một giọng ca mới nổi là Vũ, tuổi nhỏ ít nghe Vũ hát nhưng từ khi có con thì hát rất khỏe. Chị Trinh có giọng tốt nhưng em thấy hát không tập trung, đặc biệt với những bài dài. Bản thân em có dịp hát ở cuộc thi phong trào Sở Y Tế mới biết mình sở hữu một thanh quản không tốt, giọng hát yếu. Dù sao thì với vốn liếng trời cho, mấy anh chị em trong nhà mình chẳng có tập luyện gì cũng đều diễn văn nghệ được hết. Thật may mắn vì âm nhạc là niềm vui của em, chứ không phải cờ bạc hay một thứ gì khác, bởi vậy anh Sơn tưởng tượng em đã từng đau khổ như thế nào khi có người muốn ngăn cản và xem văn nghệ là mất thời gian, là vô ích.)
(Phong: Lúc ở Phan Thiết, có dịp nói chuyện với cha Hiên, là bạn học cùng lớp với cha mình lúc ở chủng viện, em mới biết đến tài đá banh của cha. Các anh em trai mình ai cũng được hưởng gien di truyền của cha về thể thao. Không xuất sắc và có đủ điều kiện để theo con đường chuyên nghiệp nhưng đủ để chơi nghiệp dư và rèn luyện thân thể. Từ lúc học lớp 6, lớp 7 em đã được vào đội tuyển bóng rổ của chủng viện, đã từng thi đấu với đội tuyển của trường Lasan. Sau giải phóng không có điều kiện chơi bóng rổ nữa, em chơi bóng chuyền. Khi đi học, vào đội tuyển bóng chuyền của trường, đi thi đấu với các đội của trường khác trong các dịp hội thể thao. Ra làm việc cũng vào đội bóng chuyền của Công ty để tham gia các giải phong trào. Bóng bàn, cầu lông, quần vợt môn nào cũng tập chơi và đều chơi được. Điều quan trọng là mình thấy ham thích cộng với chút năng khiếu có sẵn là mình tập chơi được dễ dàng không phải tốn thời gian đi học.
Nói về máu âm nhạc thì đúng là anh chị em trong nhà ai cũng có, đặc biệt là các anh em trai. Trong 6 anh em trai, ngoài Vũ ra, ai cũng có thể chơi được ít nhất một loại nhạc cụ đạt trình độ có thể tự đệm cho mình, cho người khác hát. Không biết các anh em khác có phải theo học thầy hay không, chứ em thì chỉ tự học. Năm học lớp 7 là đã rất thích đánh đàn ghi ta nhưng không có đàn nên phải mượn đàn của đứa bạn để tập chơi từ đó. Em cũng đã có tập chơi mandoline, vĩ cầm, phong cầm, khẩu cầm nhung chỉ ở mức độ bập bẹ. Nguyên rất tài: ngoài guitar còn có thể chơi tốt kèn trompet, accordéon, vĩ cầm. Về giọng hát thì đúng như Giang nói, nhà mình không có được giọng hát khỏe, chỉ đẹp, trầm ấm, nghe rất truyền cảm. Giọng hát này chỉ đủ để thỏa mãn niềm vui cho mình và cho những người yêu thích âm nhạc chứ chưa làm ca sĩ được. Năm 17,18 tuổi khi được xem chương trình ca nhạc của đoàn Quê hương (do Duy Khánh thành lập và là ca sĩ chính), em mê quá chừng và ước mơ mình cũng được biểu diễn trên sân khấu. Khi đi học ở chủng viện các anh lớn thấy em có giọng hát hay nên tập cho hát để thi ca sĩ chứ em không chủ động. Lúc đầu tập bài Roméo et Juliette hát bằng tiếng Pháp nhưng sau không hiểu sao lại đổi thành bài Hai mùa mưa. Lần đó em được đứng thứ nhì. Giọng hát mình ngày càng điêu luyện do mình được hát nhiều trong ca đoàn. Ba năm trong chủng viện em hát bè soprano. Sau giải phóng em hát bè bass ở ca đoàn lớn, phụ trách tập hát cho ca đoàn nhỏ. Đi học thì phụ trách văn nghệ của lớp, tập hát cho lớp trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ, tập hát cho đội văn nghệ của lớp để tham gia hội diễn. Khi đi làm cũng vào đội văn nghệ của Công ty, tham gia hội diễn nghệ thuật quần chúng, đi biểu diễn một vài nơi trong Tỉnh. Vì thiếu tự tin nên em rất ít khi đơn ca, chỉ hát hợp ca và đánh đàn guitar bass trong ban nhạc. Mỗi lần về nhà dịp nghỉ hè, nghỉ tết lại thấy anh Sơn, anh Thạch ôm đàn hát đủ thứ bài. Em nhớ anh Sơn hay hát các bài như: Coupable, Cuộc tình ngày đó...Hai năm tình lận đận, anh Thạch thì hay hát bài: The house, Gửi hồn trong băng giá...., các bài hát của Nguyễn Trung Cang...Có một lần ở Đắc Min, Sơn-Thạch-Phong đã tập một số bài và đi trình tấu tam ca ở nhà ông Thư.)
(Sơn: Anh cũng không quên được những hát hò vui đùa giữa 3 anh em trên căn gác ở Xã Đoài - Đức Minh, và những lần đi “trình diễn” trên nhà ông bà Thư vào các ngày chúa nhật dịp Phong về nghỉ hè. Bài hát đặc biệt nhất mà 3 cô gái con ông Thư rất thích, đó là bài Quê Hương: “thuở còn thơ, ngày 2 buổi đến trường …” mà bây giờ anh chỉ còn nhớ lõm bõm vài chữ)
(Chị Tuyết : Liên quan đến chuyện ca hát chị còn nhớ hai kỷ niệm không mấy phấn khởi liên quan đến cha :
Một là bị chê !
Đó là lúc cha còn phụ trách ca đoàn ở Vinh Thuỷ. Khoảng tám chín tuổi gì đó, chị cũng được đi theo tập hát với cha. Trong giờ tập hát, dưới bóng đèn dầu lờ mờ trong nhà xứ, cha đề nghị mỗi ca viên hát lên một đoạn nhạc để xem trúng sai hoặc hay dở như thế nào. Đến phiên chị, hát xong, cha chê là hát dở quá ! Chị nhớ chị Huy có giọng hát hay. Thật sự lúc ấy cảm thức về âm nhạc của chị chưa phát triển nên hát dở là phải lắm ! Có lẽ vì thiếu động lực tâm lý nên lúc còn ở nhà chị không tha thiết lắm đến việc ca hát mặc dù vẫn thuộc các bản nhạc mà cha thường hát. Sáng sớm thức dậy là đã nghe cha hát rồi!
Sau này khi vào Dòng. Trong giờ học nhạc lý. Chị rất thích môn xướng âm và đánh nhịp. Biết mình có khiếu về nhạc, từ đó cảm thức về âm nhạc nơi con mới bắt đầu phát triển. Rất thích chơi đàn nhưng không có điều kiện để tập luyện và phát triển như phái nam nên đành từ bỏ ước mơ ! Hơn nữa, thanh quản của chị yếu nên rất dễ đau và mất tiếng. Tập hát thì được nhưng đến ngày lễ thì khản tịt cả cổ không hát được nữa. Chán ơi là chán ! Rồi đến lúc nhà dòng cho đi học nhạc vào năm 1982 ở Sài Gòn thì lại bị phát bệnh basodow, bị viêm họng thường xuyên nên không thu thập đươc chi nhiều. Phải chăng có nợ mà chẳng được nên duyên !
Hai là bị cấm !
Bắt đầu cảm được cái đẹp trong âm nhạc. Mặc dù đi tu chị vẫn thích những bản tình ca. Chị bắt đầu chép bài hát có nốt nhạc và vẽ vời mơ mộng ! Về nhà, cha nghe, liền cấm không được hát. Cụt hứng ! Cha có biết đâu, hát một bản tình ca vì cảm cái đẹp nơi giòng nhạc và ý thơ chứ đâu phải vì mơ mộng tình cảm . . . theo anh chàng nào ! Thì thôi vậy. Nhưng cho đến bây giờ, hình như một ít những bản tình ca chép tay ngày nào còn trẻ vẫn còn đâu dưới đáy rương ! (Sơn: như vậy là chị bị xui. Em cũng bị cha cấm, và thường xuyên nhắc nhở là lo học hành, nhưng cha đâu có ở bên cạnh mà canh mình mãi được, nên hễ có bài nào hay là em kẻ nhạc chép lại để dành làm thành sưu tập. Em có một tập nhạc dày, chép tay rất công phu trong suốt thời gian trung học, mà vì vượt biên nên đành bỏ lại, rồi mất luôn. Một bài hát có nhạc điệu lôi cuốn thì tự nhiên mình thích, bất kể lời nó ra sao. Em nhớ sau này khi Thạch bắt đầu đi học ở TCV Sao biển, cũng bắt đầu chép và sưu tầm nhạc như em vây.)
Bù lại chị để hết tâm hồn vào việc hát Thánh ca. Giọng ca không khoẻ nhưng rất truyền cảm, có hồn, chị thường tập hát và điều khiển ca đoàn. Đó là công việc mà chị làm không biết mệt và đều để lại những ấn tượng tốt đẹp ở những nơi đã phục vụ.
Chị đề nghị ngày mọi người sum họp để mừng lễ cha mẹ nên tổ chức những buổi ca nhạc và hoà tấu cây nhà lá vườn. Cây violon của cha đã bị thất lạc mất rồi, chắc phải mượn hoặc mướn cho cha cây khác để cha làm sống lại những ngày còn xuân.)
Một ngã rẽ
Mùa hè 1987, trong thời gian mới kết thúc lớp 9 đang rất rảnh rỗi, sau bữa cơm tối em đạp xe một mình dạo loanh quanh ở Hàng Xanh và Thị Nghè rồi ghé vào một quán nước mía gần cổng nhà thờ Nguyễn Duy Khang, trong đầu nhẹ tênh với ý định xếp sách vở về nhà làm rẫy với cha mẹ. Chẳng biết mình quyết định từ lúc nào và có ai đồng tình hay không nhưng lý lẽ thì đơn sơ và chắc chắn: đi học cũng chẳng làm được gì cho ai, lại tốn tiền mất thời gian, trong khi ở nhà thì đang cần sức người làm việc, mình học được đến đây cũng khá rồi, dừng lại là một quyết định hợp lý. Vừa uống xong ly nước mía đứng lên tính tiền thì có hai anh chị dừng xe đạp ghé vào. Vô tình gặp người quen, đó là bạn anh Phong. Anh này ở bên đường Điện Biên Phủ, có lần anh Phong vào nhà cô Hòa chở em qua đó chơi, đi cùng anh đó ra quán cà phê, hai anh gọi cà phê và thuốc lá, còn em chẳng biết chọn uống gì, cuối cùng anh Phong phải chọn sữa cho em. Nói chuyện qua lại một lúc thì đến chuyện học hành và em nói ra ý định bỏ học. Anh ấy nhíu mày hỏi “Tại sao vậy? Cha mẹ có kêu em về hay không?” Em trả lời không vì đó là quyết định của em mà. Anh ta mới khuyên rằng em đừng nên bỏ phí cơ hội học hành, em nhớ rõ từ “cơ hội”. Anh ấy bảo rằng, anh ấy đã không có cơ hội học hành như em và ảnh đang tiếc cho hoàn cảnh của mình, bây giờ muốn học thì lại phải lo đủ thứ không thể học được. Ảnh cũng nói là em còn nhỏ chưa thấy hết giá trị của việc học đâu. Nghe vậy, em chẳng tỏ thái độ đồng ý hay phản đối gì cả, chỉ nghe, cười cười vậy thôi.
Kết quả cuối cùng thì ai cũng biết, có lẽ anh ấy không biết, nhưng anh ấy đã bỏ một công sức nhỏ để mở một ngã rẽ quan trọng của đời em. Cũng nhờ những ấn tượng này mà bây giờ em biết thông cảm hơn khi nhìn thấy thái độ thờ ơ của các cháu tuổi teen mỗi khi chúng nghe lời khuyên nhủ. (Sơn: Một tác giả tâm lý nổi tiếng của Mỹ đã nói trong bài thuyết trình của ông ta rằng có 3 điều trong cuộc đời có thể để lại dấu ấn lâu dài và có khi có thể cải đổi số phận của một con người, đó là một nơi chốn kỳ thú, một cuốn sách hay, một cuộc gặp gỡ tình cờ với một người đặc biệt nào đó. Trong trường hợp của Giang, chính sự gặp gỡ bất ngờ với người đàn anh đó đã làm em nhận ra điều mà em không thấy trước kia. Bạn của anh Phong thật tốt vì có lòng quan tâm đến em, một người mà anh ta chỉ quen biết sơ sài)
Kết quả cuối cùng thì ai cũng biết, có lẽ anh ấy không biết, nhưng anh ấy đã bỏ một công sức nhỏ để mở một ngã rẽ quan trọng của đời em. Cũng nhờ những ấn tượng này mà bây giờ em biết thông cảm hơn khi nhìn thấy thái độ thờ ơ của các cháu tuổi teen mỗi khi chúng nghe lời khuyên nhủ. (Sơn: Một tác giả tâm lý nổi tiếng của Mỹ đã nói trong bài thuyết trình của ông ta rằng có 3 điều trong cuộc đời có thể để lại dấu ấn lâu dài và có khi có thể cải đổi số phận của một con người, đó là một nơi chốn kỳ thú, một cuốn sách hay, một cuộc gặp gỡ tình cờ với một người đặc biệt nào đó. Trong trường hợp của Giang, chính sự gặp gỡ bất ngờ với người đàn anh đó đã làm em nhận ra điều mà em không thấy trước kia. Bạn của anh Phong thật tốt vì có lòng quan tâm đến em, một người mà anh ta chỉ quen biết sơ sài)
Xa nhà
Tháng Tám 1983, Giang 11 tuổi được chị Thủy đưa đi Sài gòn, bắt đầu một cuộc sống xa nhà. Ngày rời Đak mil trời mưa nhiều, đường trơn lầy lội. Chuyến đi bắt đầu từ 4 giờ sáng trên một chiếc xe tải không có hàng, dọc đường xe bị trợt xuống mương mấy lần, ngồi trên cabin chỉ mong xe đừng bị lật chứ không hề mong nó mau tới. Khoảng 3 hoặc 4 giờ sáng ngày hôm sau mới tới một nơi khung cảnh khác hoàn toàn thôn quê của mình (bây giờ em đoán đó là thị trấn Thủ Dầu Một, Bình Dương), thấy toàn là đường nhựa, xe chạy có hàng lối đàng hoàng, không khí thì toàn mùi khói xe và xăng dầu. Dọc hai bên đường bán rất nhiều bánh mì và bánh bò, có màu xanh, trắng và hồng. Từ đây lại lên một chiếc xe nhỏ đi tiếp vào Sài gòn, rồi lại đi tiếp bằng xích lô về tới Thị Nghè. Tới nơi bước vào nhà cô Hương thấy Chị Trinh và anh Nguyên đã có mặt ở đó, chị Trinh từ dưới miền tây lên, còn anh Nguyên thì xuống để học tiếp chương trình phổ thông.
Đây là một căn nhà ồn ào, vì ở gần chợ nên nghe người ta rao bán đủ thứ tôm cá rau quả, bên kia thì có người tụng kinh, phía sau có người tập hát còn trong nhà thì có ghi-ta, mandolin, clarinet, piano, trumpet, các con cô chơi hàng ngày. Em vẫn còn vô tư hay chơi giỡn với Thu và Hà, có lúc rượt nhau chạy rầm rầm trên gác bị anh Nguyên gọi xuống la, không cho chơi giỡn với "mấy đứa đó". Cô xây một cái phòng riêng cho 3 chị em ở, có được không gian sinh hoạt riêng khá yên ổn và tự do. Trong phòng chỉ có hai cái giường ngủ và một cái tủ treo quần áo, chẳng có vật dụng gì khác. Mỗi lần anh Nguyên cần tra từ điển hay sai em chạy lên phòng trên, chỗ học hành của mấy người con chú Kim, tra xong về đọc lại nghĩa tiếng Việt cho anh Nguyên, chuyện này diễn ra khá dài ngày và em bị anh Nguyên trách nhiều lần vì tra không tới nơi tới chốn. Lúc đó em chưa phân biệt được thế nào là danh từ, động từ cho nên cứ đọc tất cả nghĩa của chữ đó rồi về nói đại ý cho anh Nguyên. 3 chị em ở đó đã gây nhiều khó chịu cho các con của cô chú, có ai đó đã gắn một cái công tắc vào đường dẫn điện xuống phòng tụi em, khi nào vui vui là tắt điện cứ như là đường dây điện vô tình bị hư vậy, sự cố lặp đi lặp lại nên chị Trinh phải để sẵn một cái đèn dầu trong phòng, khi bị ngắt điện thì thắp đèn dầu, chẳng lấy gì làm khó chịu cả. Một lần khác, em và anh Nguyên đi ăn cơm tối bên nhà cô Hòa về phát hiện cửa phòng khép kín khác thường, anh Nguyên mở ra thì thấy ai đó dùng cây đờn ghi-ta với chăn mền dựng cảnh một xác chết nằm trên giường.
(Sơn: Việc gia đình mình có liên lạc qua lại khá nhiều với gia đình cô chú Kim là từ sau giải phóng, khi gia đình cô chú ấy có kế hoạch đi định cư ở Canada. Vào năm 1983, lúc đó anh đang đi tu và giúp xứ tại một họ đạo Tây thì nhận được thư của cha giới thiệu về gia đình cô chú Kim và cho anh biết là khi họ ra đi thì sẽ bán lại căn nhà ở SG cho mình nên cha muốn biết anh có thể đóng góp giúp cha mẹ thanh toán được không, anh trả lời “Con sẵn sàng, cha mẹ cứ tiến hành rồi bên này con sẽ liên lạc với họ để thanh toán”. Về sau không biết trục trặc lý do gì đó mà không nghe cha nhắc tới chuyện nhà cửa nữa. Từ đó, các em Trinh Nguyên Thủy Giang qua lại với gia đình cô chú thường xuyên, và có thời gian các em còn tá túc nơi nhà cô chú để đi học, không rõ trong thời gian bao lâu. Quang cũng có xuống chơi đôi ba lần nhưng dường như ít hơn, và anh Phong khi đó đang đi nghĩa vụ bên Kampuchia cũng tới thăm một vài lần.
Anh không bao giờ đồng ý chuyện con cái đi ở trong gia đình người khác vì mỗi gia đình có những tập tục riêng, có những mối liên hệ đặc thù giữa các thành viên. Một người lạ đặt chân vào đó rất lạc lõng cho chính đương sự mà còn gây ra phiền toái cho người đón tiếp mình. Ghé thăm chơi vài ba ngày thì không nói, nhưng ở lâu dài tháng này qua tháng nọ là một giải pháp đường cùng khi không còn cách nào khác. Anh cũng hiểu được là hoàn cảnh của gia đình mình lúc đó chắc không có cách nào khác hơn. Kinh nghiệm anh đã thấy là trong trường hợp 2 em Ngân Liêm con chú Điều ở trong nhà mình, và trước đó một ít thời gian, có chú Đính con của ông Vinh, cha gọi bằng cậu ruột, dưới Bình Tuy lên ở trong nhà mình vài tuần lễ hay một hai tháng gì đó.. Giữa người lớn với nhau thì dễ thông cảm, cả 2 bên gia đình đều có ý thức giúp đỡ, san sẻ cho nhau vì tình thân, vì ân nghĩa hay vì bác ái … Nhưng giữa trẻ con với nhau không thể nào không có tranh chấp, ganh tị. Sau này, khi gia đình cô chú qua định cư ở Montreal, 2 anh Thạch Sơn có dịp làm quen tìm hiểu nhiều hơn cô và về những người con trong gia đình cô thì mới thông cảm được với những bẽ bàng tụi em phải chịu đựng).
(Trinh : Sau khi em học xong lớp 12, khoảng tháng 8 năm 1984 thay vì về nhà thì cha báo cho là về chỗ nhà cô Hương, khi em tới nhà cô thì thấy cha đã ở đó, cha nói với em là gia đình cô sẽ đi định cư ở Canada trong khoảng vài ba tháng tới, em ở đây phụ giúp cô việc nhà và các em sẽ xuống đây học, nhà mình sẽ mua lại căn nhà này. Căn nhà của cô mặt trước thì rộng khoảng hơn 4 m thôi nhưng phía sau thì rộng gấp 4 lần phía trước có chỗ đặt bàn để chơi pingpong và cửa sau lại thông ra một cái chợ nhỏ nên mẹ rất thích địa điểm này, mẹ tính sẽ về sống và buôn bán ở đó. Gia đình cô lúc đó có 6 người con trong nhà Đức 21 tuổi, Thiện 19 tuổi, Mỹ 18 tuổi (cùng tuổi với Nguyên), Thu 16 (cùng tuổi với Thủy) Minh 14 và Hà 13 (hơn Giang 1 tuổi). Cô chú rất nghiêm khắc với con cái, có rất nhiều thứ không được phép làm. Nhưng khi Nguyên xuống thì có một thay đổi đó là Nguyên chơi ghita và hát tình ca rất hay (điều mà những người con của Cô Chú Kim không được phép) làm Thu nó khoái vô cùng. Cô Chú rất quý cha mình nên đối xử tốt với mấy chị em, cả những người con của cô cũng vậy. Mâu thuẫn xảy ra lúc gần nghỉ hè mà phải bí mật khỏi người lớn biết nên nó viết một lá thư kể tội 3 chị em mà chủ yếu là em, em và Nguyên ngồi bàn nhau viết một lá thư trả lời (Đức và Minh thì đứng ngoài cuộc chủ yếu là Mỹ, nó kéo Thu, Hà theo còn Thiện thì đứng giữa làm sứ giả hòa bình). Sau đó cô biết được nên đã tịch thu 2 lá thư, bắt ngồi lại với nhau để hoà giải nhưng chẳng giải quyết được gì cả. Em thấy mình chẳng làm gì sai nên cứ tỉnh bơ, không quan tâm đến những trò nó nghĩ ra để phá tụi em. Sau đó ba đứa về nghỉ hè, chiều trước ngày về em đi học anh văn buổi cuối cùng thì Mỹ đi theo và làm hòa với em, thế là xong. Do trục trặc về giấy khám sức khỏe nên gia đình cô đã phải chờ đợi hơn 1 năm so với dự kiến nên gặp khó khăn về tài chánh nên trước khi ra đi phải bán căn nhà với giá 4 cây vàng lấy tiền liền (bán cho nhà mình thì qua bên kia mới lấy tiền). Lúc đó chắc cha không dám mượn tiền để mua nên mình mất cơ hội mua nhà Sài Gòn và số mẹ không được thong thả hơn. Theo em nhận định thì thời gian Nguyên sống trong gia đình cô tạo được ấn tượng rất tốt, chú thường khen Nguyên về cách cư xử rất chững chạc và người lớn và Nguyên cũng giúp cô nhiều việc trong những ngày chuẩn bị đi đoàn tụ).
Chú Kim rất hiền và chẳng thấy lớn tiếng bao giờ, chú đã dạy cho em đọc tiếng Anh khi em còn nhút nhát và mắc cở không dám phát âm. Bài học rất đơn giản: lật sách ra bài đầu tiên, chú đọc từng chữ, lần lượt hết chữ này đến chữ khác, một cách chậm rãi, không lý luận giải thích, không cần biết nghĩa là gì, “học trò” chỉ việc đọc lặp lại những gì mình nghe được. Khi chú nghe thấy tốt rồi thì dừng lại. Dường như buổi học chỉ kéo dài chưa tới 15 phút, và có lẽ chỉ có một hoặc hai bữa mà thôi nhưng hiệu quả là đã đánh tan được sự rụt rè của em.
Từ khi ở nhà cô chú, em mới biết khái niệm ăn sáng, nghĩa là ăn điểm tâm, chỉ một chén cơm chan nước tương thôi, không hề có thêm thịt cá hay bất kỳ thứ gì khác, chị Trinh phải dặn em vì sợ em theo thói quen ở nhà, ăn hết thì đưa chén bới cơm thêm. Sống ở đây một thời gian thì em biết tự giặt đồ, tự khâu vá quần áo, rửa chén... đến khi không có chị Trinh thì em cũng tự thêu tên lên cái bảng tên trường may lên ngực áo.
Em không nhớ ai bày cho viết lá thư đầu tiên nhưng sau đó viết rất nhiều, viết cho chị Quang nhiều nhất, cứ vài tuần lại ra bưu điện gởi 1 lá rồi ngồi mong nhận được hồi âm. Sau này em được đọc lại mấy thư cũ của mình thấy rất là buồn cười, nhưng quả thật thư từ là phương cách riêng thông truyền tâm tư giữa hai người, có những người mình nói chuyện dễ dàng nhưng khi ở xa chẳng biết viết gì cho họ cả. Cha cũng thường viết thư cho em nhưng em không trả lời, cũng có khi đã viết mà không gởi, mọi tâm tư đều chia sẻ với chị Trinh và chị Quang. Khi học lên cấp 3 thì bắt đầu viết cho các anh chị khác. Lớn hơn nữa, khi biết hút thuốc, uống rượu và gặp thái độ phản đối mãnh liệt của cha thì lại trao đổi nhiều với anh Sơn và anh Thạch. Có một điều bất ngờ, trong chỗ lưu trữ những thư và thiệp cũ của em bây giờ, thư viết tay của chị Quỳnh Anh được giữ lại nhiều nhất.
Đây là một căn nhà ồn ào, vì ở gần chợ nên nghe người ta rao bán đủ thứ tôm cá rau quả, bên kia thì có người tụng kinh, phía sau có người tập hát còn trong nhà thì có ghi-ta, mandolin, clarinet, piano, trumpet, các con cô chơi hàng ngày. Em vẫn còn vô tư hay chơi giỡn với Thu và Hà, có lúc rượt nhau chạy rầm rầm trên gác bị anh Nguyên gọi xuống la, không cho chơi giỡn với "mấy đứa đó". Cô xây một cái phòng riêng cho 3 chị em ở, có được không gian sinh hoạt riêng khá yên ổn và tự do. Trong phòng chỉ có hai cái giường ngủ và một cái tủ treo quần áo, chẳng có vật dụng gì khác. Mỗi lần anh Nguyên cần tra từ điển hay sai em chạy lên phòng trên, chỗ học hành của mấy người con chú Kim, tra xong về đọc lại nghĩa tiếng Việt cho anh Nguyên, chuyện này diễn ra khá dài ngày và em bị anh Nguyên trách nhiều lần vì tra không tới nơi tới chốn. Lúc đó em chưa phân biệt được thế nào là danh từ, động từ cho nên cứ đọc tất cả nghĩa của chữ đó rồi về nói đại ý cho anh Nguyên. 3 chị em ở đó đã gây nhiều khó chịu cho các con của cô chú, có ai đó đã gắn một cái công tắc vào đường dẫn điện xuống phòng tụi em, khi nào vui vui là tắt điện cứ như là đường dây điện vô tình bị hư vậy, sự cố lặp đi lặp lại nên chị Trinh phải để sẵn một cái đèn dầu trong phòng, khi bị ngắt điện thì thắp đèn dầu, chẳng lấy gì làm khó chịu cả. Một lần khác, em và anh Nguyên đi ăn cơm tối bên nhà cô Hòa về phát hiện cửa phòng khép kín khác thường, anh Nguyên mở ra thì thấy ai đó dùng cây đờn ghi-ta với chăn mền dựng cảnh một xác chết nằm trên giường.
(Sơn: Việc gia đình mình có liên lạc qua lại khá nhiều với gia đình cô chú Kim là từ sau giải phóng, khi gia đình cô chú ấy có kế hoạch đi định cư ở Canada. Vào năm 1983, lúc đó anh đang đi tu và giúp xứ tại một họ đạo Tây thì nhận được thư của cha giới thiệu về gia đình cô chú Kim và cho anh biết là khi họ ra đi thì sẽ bán lại căn nhà ở SG cho mình nên cha muốn biết anh có thể đóng góp giúp cha mẹ thanh toán được không, anh trả lời “Con sẵn sàng, cha mẹ cứ tiến hành rồi bên này con sẽ liên lạc với họ để thanh toán”. Về sau không biết trục trặc lý do gì đó mà không nghe cha nhắc tới chuyện nhà cửa nữa. Từ đó, các em Trinh Nguyên Thủy Giang qua lại với gia đình cô chú thường xuyên, và có thời gian các em còn tá túc nơi nhà cô chú để đi học, không rõ trong thời gian bao lâu. Quang cũng có xuống chơi đôi ba lần nhưng dường như ít hơn, và anh Phong khi đó đang đi nghĩa vụ bên Kampuchia cũng tới thăm một vài lần.
Anh không bao giờ đồng ý chuyện con cái đi ở trong gia đình người khác vì mỗi gia đình có những tập tục riêng, có những mối liên hệ đặc thù giữa các thành viên. Một người lạ đặt chân vào đó rất lạc lõng cho chính đương sự mà còn gây ra phiền toái cho người đón tiếp mình. Ghé thăm chơi vài ba ngày thì không nói, nhưng ở lâu dài tháng này qua tháng nọ là một giải pháp đường cùng khi không còn cách nào khác. Anh cũng hiểu được là hoàn cảnh của gia đình mình lúc đó chắc không có cách nào khác hơn. Kinh nghiệm anh đã thấy là trong trường hợp 2 em Ngân Liêm con chú Điều ở trong nhà mình, và trước đó một ít thời gian, có chú Đính con của ông Vinh, cha gọi bằng cậu ruột, dưới Bình Tuy lên ở trong nhà mình vài tuần lễ hay một hai tháng gì đó.. Giữa người lớn với nhau thì dễ thông cảm, cả 2 bên gia đình đều có ý thức giúp đỡ, san sẻ cho nhau vì tình thân, vì ân nghĩa hay vì bác ái … Nhưng giữa trẻ con với nhau không thể nào không có tranh chấp, ganh tị. Sau này, khi gia đình cô chú qua định cư ở Montreal, 2 anh Thạch Sơn có dịp làm quen tìm hiểu nhiều hơn cô và về những người con trong gia đình cô thì mới thông cảm được với những bẽ bàng tụi em phải chịu đựng).
(Trinh : Sau khi em học xong lớp 12, khoảng tháng 8 năm 1984 thay vì về nhà thì cha báo cho là về chỗ nhà cô Hương, khi em tới nhà cô thì thấy cha đã ở đó, cha nói với em là gia đình cô sẽ đi định cư ở Canada trong khoảng vài ba tháng tới, em ở đây phụ giúp cô việc nhà và các em sẽ xuống đây học, nhà mình sẽ mua lại căn nhà này. Căn nhà của cô mặt trước thì rộng khoảng hơn 4 m thôi nhưng phía sau thì rộng gấp 4 lần phía trước có chỗ đặt bàn để chơi pingpong và cửa sau lại thông ra một cái chợ nhỏ nên mẹ rất thích địa điểm này, mẹ tính sẽ về sống và buôn bán ở đó. Gia đình cô lúc đó có 6 người con trong nhà Đức 21 tuổi, Thiện 19 tuổi, Mỹ 18 tuổi (cùng tuổi với Nguyên), Thu 16 (cùng tuổi với Thủy) Minh 14 và Hà 13 (hơn Giang 1 tuổi). Cô chú rất nghiêm khắc với con cái, có rất nhiều thứ không được phép làm. Nhưng khi Nguyên xuống thì có một thay đổi đó là Nguyên chơi ghita và hát tình ca rất hay (điều mà những người con của Cô Chú Kim không được phép) làm Thu nó khoái vô cùng. Cô Chú rất quý cha mình nên đối xử tốt với mấy chị em, cả những người con của cô cũng vậy. Mâu thuẫn xảy ra lúc gần nghỉ hè mà phải bí mật khỏi người lớn biết nên nó viết một lá thư kể tội 3 chị em mà chủ yếu là em, em và Nguyên ngồi bàn nhau viết một lá thư trả lời (Đức và Minh thì đứng ngoài cuộc chủ yếu là Mỹ, nó kéo Thu, Hà theo còn Thiện thì đứng giữa làm sứ giả hòa bình). Sau đó cô biết được nên đã tịch thu 2 lá thư, bắt ngồi lại với nhau để hoà giải nhưng chẳng giải quyết được gì cả. Em thấy mình chẳng làm gì sai nên cứ tỉnh bơ, không quan tâm đến những trò nó nghĩ ra để phá tụi em. Sau đó ba đứa về nghỉ hè, chiều trước ngày về em đi học anh văn buổi cuối cùng thì Mỹ đi theo và làm hòa với em, thế là xong. Do trục trặc về giấy khám sức khỏe nên gia đình cô đã phải chờ đợi hơn 1 năm so với dự kiến nên gặp khó khăn về tài chánh nên trước khi ra đi phải bán căn nhà với giá 4 cây vàng lấy tiền liền (bán cho nhà mình thì qua bên kia mới lấy tiền). Lúc đó chắc cha không dám mượn tiền để mua nên mình mất cơ hội mua nhà Sài Gòn và số mẹ không được thong thả hơn. Theo em nhận định thì thời gian Nguyên sống trong gia đình cô tạo được ấn tượng rất tốt, chú thường khen Nguyên về cách cư xử rất chững chạc và người lớn và Nguyên cũng giúp cô nhiều việc trong những ngày chuẩn bị đi đoàn tụ).
Chú Kim rất hiền và chẳng thấy lớn tiếng bao giờ, chú đã dạy cho em đọc tiếng Anh khi em còn nhút nhát và mắc cở không dám phát âm. Bài học rất đơn giản: lật sách ra bài đầu tiên, chú đọc từng chữ, lần lượt hết chữ này đến chữ khác, một cách chậm rãi, không lý luận giải thích, không cần biết nghĩa là gì, “học trò” chỉ việc đọc lặp lại những gì mình nghe được. Khi chú nghe thấy tốt rồi thì dừng lại. Dường như buổi học chỉ kéo dài chưa tới 15 phút, và có lẽ chỉ có một hoặc hai bữa mà thôi nhưng hiệu quả là đã đánh tan được sự rụt rè của em.
Từ khi ở nhà cô chú, em mới biết khái niệm ăn sáng, nghĩa là ăn điểm tâm, chỉ một chén cơm chan nước tương thôi, không hề có thêm thịt cá hay bất kỳ thứ gì khác, chị Trinh phải dặn em vì sợ em theo thói quen ở nhà, ăn hết thì đưa chén bới cơm thêm. Sống ở đây một thời gian thì em biết tự giặt đồ, tự khâu vá quần áo, rửa chén... đến khi không có chị Trinh thì em cũng tự thêu tên lên cái bảng tên trường may lên ngực áo.
Em không nhớ ai bày cho viết lá thư đầu tiên nhưng sau đó viết rất nhiều, viết cho chị Quang nhiều nhất, cứ vài tuần lại ra bưu điện gởi 1 lá rồi ngồi mong nhận được hồi âm. Sau này em được đọc lại mấy thư cũ của mình thấy rất là buồn cười, nhưng quả thật thư từ là phương cách riêng thông truyền tâm tư giữa hai người, có những người mình nói chuyện dễ dàng nhưng khi ở xa chẳng biết viết gì cho họ cả. Cha cũng thường viết thư cho em nhưng em không trả lời, cũng có khi đã viết mà không gởi, mọi tâm tư đều chia sẻ với chị Trinh và chị Quang. Khi học lên cấp 3 thì bắt đầu viết cho các anh chị khác. Lớn hơn nữa, khi biết hút thuốc, uống rượu và gặp thái độ phản đối mãnh liệt của cha thì lại trao đổi nhiều với anh Sơn và anh Thạch. Có một điều bất ngờ, trong chỗ lưu trữ những thư và thiệp cũ của em bây giờ, thư viết tay của chị Quỳnh Anh được giữ lại nhiều nhất.
Kỷ niệm rừng lạnh
Khi anh Nguyên khởi sự làm rẫy trong rừng lạnh thì hình như em mới học hết lớp 9, tức vào khoảng 1988. Lần đầu em được đi vào rừng lạnh có lẽ là trong một kỳ nghỉ hè khi còn học cấp ba, đó là vào ngày thứ Hai đầu tuần, mẹ chuẩn bị nhiều thứ đồ ăn để mang vào rừng dùng cho cả tuần. Chuyến đi đầu tiên đó em hoàn toàn không nhớ mình đi bằng xe gì, chỉ nhớ là có nhiều người và anh Nguyên chạy chiếc xe đạp mini, chở một bao gạo to để phía trước. Hình như nhà ông Linh có xe máy cày chở đồ đạc và người nhưng vẫn có nhiều người khác phải đi bằng xe đạp.
Đến chỗ đường quẹo vào rẫy là con đường mòn, cây rừng rậm rạp, ẩm thấp và nhiều vũng nước, hai bên đường có rất nhiều lá nhíp, là thứ lá ăn được chỉ mọc ở trong rừng. Từ đường cái vào tới rẫy cũng hết sức vất vả vì đường trơn, dốc và phải len qua nhiều gốc cây. Nghe nói khi vào tới đây thì luôn cảm thấy lạnh hơn nên nó được gọi là rừng lạnh. Khi em vào tới nơi thì thấy các anh đã đốn một khu rừng rộng, đã có chòi để sinh hoạt và đang dọn dẹp, đốt cho sạch cây rừng chuẩn bị trồng cà phê. Em theo làm các công việc gom đốt này. Cũng trong những dịp theo anh Nguyên vào rừng đi làm cả tuần như vậy mà em được mấy anh cho bắn súng thật, hình như là M16.
Sau vài ba năm khai hoang và đã trồng cà phê thì có những dịp em ở lại trong rừng với anh Nguyên và mẹ, lúc này mỗi gia đình có một cái chòi riêng chứ không ở chung như thời mới khai hoang nữa. Nhà mình cũng đã có xe càng, mỗi khi vào rừng có chở theo con chó, nó luôn làm cho mình cảm thấy an tâm hơn. Có hai kỷ niệm rất ấn tượng với em trong thời gian này, không hiểu anh Nguyên đi đâu mà cả hai lần đều vắng mặt, chỉ có em với mẹ mà thôi.
Kỷ niệm thứ nhất là mẹ bị cảm lạnh khi đang ở trong rừng. Một buổi sáng mẹ bị ớn lạnh, chóng mặt không thể ngồi dậy được. Em xức dầu và cạo gió nhưng tình hình không khá hơn và cuối cùng phải quyết định chở mẹ về nhà. Việc lái xe-càng đòi hỏi phải có sức khỏe nhưng em thì lại yếu ớt, chỉ nặng khoảng 50 ký, đã có khi không làm chủ được tay lái. Đã vậy, muốn xe chạy êm thì phải chất cho nặng một chút. Bởi vậy em phải chất lên xe một ít củi rồi trải thêm chiếu gối cho mẹ nằm. Xoay xở đủ thứ cuối cùng cũng lái được xe ra khỏi rừng, tới đường cái để chạy về nhà. Vì mẹ có dấu hiệu cảm rất nặng, tay chân lạnh ngắt và nằm li bì cho nên trong đầu em cứ áy náy là liệu mình có chạy chậm quá không..., nhưng chạy nhanh thì xe lại bị dằn lắc nhiều cũng không tốt. Tâm trạng vừa lo lắng vừa áy náy kéo dài mãi cho tới nhà, khi về tới nghe mẹ nói được mấy câu em mới cảm thấy nhẹ người. Tiếp theo thì chị Thủy phải bỏ công việc may vá để cạo gió lại cho mẹ.
Một kỷ niệm khác cũng rất đặc biệt, đó là em dám ngủ lại một mình trong rừng. Bữa đó là ngày thứ Năm và hai mẹ con hết lương thực. Mẹ tiếc công đi vào rừng nên tính toán là một trong hai sẽ về nhà lấy thêm thức ăn cho hai ngày còn lại. Khoảng 3 hay 4 giờ chiều gì đó thì quyết định là mẹ về, em ở lại. Khi biết tin những người chung quanh cũng sẽ về hết chiều nay, và chỉ mỗi mình ở lại giữa rừng, em vẫn cảm thấy thoải mái, dù sao thì chung quanh đây cũng chỉ có mấy con khỉ chứ có gì nguy hiểm đâu. Khi mọi người đã ra về, em tranh thủ tắm rửa sớm, chuẩn bị củi lửa thật đầy đủ, rồi ăn cơm, dọn dẹp, làm mọi chuyện như bình thường mình vẫn làm để tự trấn an mình. Nhưng càng về đêm thì dần dần xuất hiện nhiều cảm giác mà bình thường không có. Không gian tĩnh lặng là thứ đầu tiên phải nếm trải, bình thường thì có tiếng người, có âm thanh sinh hoạt, bây giờ nó thinh lặng đến nỗi lỗ tai mình tự nó cứ căng lên, như để tìm kiếm âm thanh vậy. Đến khi khó chịu quá thì em bắt đầu tìm cách tạo ra âm thanh, ban đầu là thử hát, rồi kêu con chó lại nói chuyện nhưng cũng chẳng có hiệu quả. Tâm trạng càng căng thẳng thì muốn hút thuốc nhiều, nhưng hút nhiều thì dường như còn tệ hơn nữa. Thông thường thì 8 giờ tối đã bắt đầu đi ngủ mà hôm nay hơn 10 giờ em vẫn còn tỉnh queo. Hết thinh lặng thì lại bắt đầu để ý tiếng côn trùng và chim chóc, rồi suy đoán những âm thanh ấy là bình thường hay khác thường. Nằm mãi vẫn không ngủ được thì bắt đầu suy nghĩ đến những chuyện mà mình đã từng nghe kể về ông thượng này, bà thượng nọ, đến khi cảm thấy sợ thì lại phải xua đuổi cái suy nghĩ đó đi. Lâu lâu lại kiểm tra xem con dao và cây súng có còn ở đúng chỗ hay không, rồi lại tưởng tượng đến những tình huống bất ngờ có thể xảy ra, lỡ có ai xuất hiện thì mình phải làm sao... May mắn là suốt đêm đó không có biến cố gì, có lẽ con chó nó không mất ngủ, còn em thì ngủ vật vờ được vài tiếng khoảng từ 2 giờ đến 4 giờ sáng. Biết là không thể ngủ tiếp được, em thức dậy pha cà phê rồi chuẩn bị súng hơi đi bắn chim. Thức dậy buổi sáng để chờ thấy mặt trời thì nó nhẹ nhàng và thoải mái hơn rất nhiều so với thời gian màn đêm buông xuống, khoảng thời gian cũng chỉ cách đây có mấy tiếng đồng hồ.
Khi đã thấy đường đi, em vác súng và mang theo cà phê ra ngoài bắn chim. Ở gần chòi có cây trứng cá, chim cu-rúc về ăn rất đông. Mình bắn trúng thì nghe tiếng "độp", một con rớt xuống đất, các con khác vẫn tiếp tục ăn, lại lắp đạn vào nhắm bắn tiếp. Bắn chán chê rồi thì lội vô gốc cây lặt chim, chỉ khi đó thì những con còn lại nó mới bay đi. Em chỉ nhớ chuyện bắn chim mà lại không nhớ sau đó làm món gì.
Khoảng 8 giờ sáng thì mẹ vô tới, em cũng không tỏ cho mẹ biết là tối hôm qua mình gặp rắc rối, coi như mọi chuyện đều êm xuôi. Nhưng có lẽ nếu xảy ra trường hợp tương tự thì em sẽ không chọn ở một mình giữa rừng nữa, vì sẽ bỏ phí một đêm không ngủ.
(Sơn: Giang kể lại tâm trạng sợ hãi trong đêm tối thật hay, ngắn gọn và đầy đủ. Anh nghĩ là nếu em ngủ lại trong rừng đêm thứ hai, em sẽ dần quen, và bớt lo âu sợ hãi hơn. Rồi nếu có lần thứ ba hay lần thứ tư, thì việc ngủ đêm một mình trong rừng sẽ không còn là điều gì ghê gớm nữa. Anh không có những lần sợ hãi thâu đêm như thế, nhưng anh có nhận xét là sự khác biệt giữa ngày và đêm, giữa tối và sáng, đã làm ý thức và cảm nhận của mình rối loạn. Trong bóng đêm, con người cảm thấy yếu đuối, e dè hơn, rồi từ đó phát sinh sợ hãi.
Năm 1995, lần đầu tiên về thăm nhà, anh nhớ cả nhà mình đã kéo nhau vô tham quan rừng lạnh. Lúc đó là lần đầu tiên chị Xuân và chị Quỳnh Anh được thấy rừng thấy rẫy café. Trong miếng rẫy của mình có cái lều và căn gác. Hôm đó cả mấy anh em đã kéo nhau lên gác chơi và ăn trưa, hình như có ăn hột vịt lộn. Không biết tại sao những lần về thăm nhà sau này, không ai có ý định đi chơi rừng lạnh nữa, trong khi anh thấy đó là một nơi đi picnic thật thú vị.
Mình có được rẫy café ở rừng lạnh, đó là nhờ công của anh Nguyên, đã ngoại giao, hợp tác với bạn bè để khai phá rừng hoang. Anh nhớ vào thời buổi đầu tiên mới khai thác, cha đã viết thư cho anh nói sơ lược về dự định và nói anh gửi tiền mua xe càng vì rẫy nằm xa nhà, không có xe không thể làm gì được. Anh quên lúc đó anh gửi tiền về cho cha mẹ bằng cách nào, hình như là gửi cho chị Hiên, rồi chị ấy cầm lên trao tận tay cho cha mẹ. Chị Hiên thật có công rất lớn trong vai trò trung gian giữa các anh ở nước ngoài và gia đình mình, một người trung gian kín đáo, nhiệt tình, và đáng tin cậy.)
Đến chỗ đường quẹo vào rẫy là con đường mòn, cây rừng rậm rạp, ẩm thấp và nhiều vũng nước, hai bên đường có rất nhiều lá nhíp, là thứ lá ăn được chỉ mọc ở trong rừng. Từ đường cái vào tới rẫy cũng hết sức vất vả vì đường trơn, dốc và phải len qua nhiều gốc cây. Nghe nói khi vào tới đây thì luôn cảm thấy lạnh hơn nên nó được gọi là rừng lạnh. Khi em vào tới nơi thì thấy các anh đã đốn một khu rừng rộng, đã có chòi để sinh hoạt và đang dọn dẹp, đốt cho sạch cây rừng chuẩn bị trồng cà phê. Em theo làm các công việc gom đốt này. Cũng trong những dịp theo anh Nguyên vào rừng đi làm cả tuần như vậy mà em được mấy anh cho bắn súng thật, hình như là M16.
Sau vài ba năm khai hoang và đã trồng cà phê thì có những dịp em ở lại trong rừng với anh Nguyên và mẹ, lúc này mỗi gia đình có một cái chòi riêng chứ không ở chung như thời mới khai hoang nữa. Nhà mình cũng đã có xe càng, mỗi khi vào rừng có chở theo con chó, nó luôn làm cho mình cảm thấy an tâm hơn. Có hai kỷ niệm rất ấn tượng với em trong thời gian này, không hiểu anh Nguyên đi đâu mà cả hai lần đều vắng mặt, chỉ có em với mẹ mà thôi.
Kỷ niệm thứ nhất là mẹ bị cảm lạnh khi đang ở trong rừng. Một buổi sáng mẹ bị ớn lạnh, chóng mặt không thể ngồi dậy được. Em xức dầu và cạo gió nhưng tình hình không khá hơn và cuối cùng phải quyết định chở mẹ về nhà. Việc lái xe-càng đòi hỏi phải có sức khỏe nhưng em thì lại yếu ớt, chỉ nặng khoảng 50 ký, đã có khi không làm chủ được tay lái. Đã vậy, muốn xe chạy êm thì phải chất cho nặng một chút. Bởi vậy em phải chất lên xe một ít củi rồi trải thêm chiếu gối cho mẹ nằm. Xoay xở đủ thứ cuối cùng cũng lái được xe ra khỏi rừng, tới đường cái để chạy về nhà. Vì mẹ có dấu hiệu cảm rất nặng, tay chân lạnh ngắt và nằm li bì cho nên trong đầu em cứ áy náy là liệu mình có chạy chậm quá không..., nhưng chạy nhanh thì xe lại bị dằn lắc nhiều cũng không tốt. Tâm trạng vừa lo lắng vừa áy náy kéo dài mãi cho tới nhà, khi về tới nghe mẹ nói được mấy câu em mới cảm thấy nhẹ người. Tiếp theo thì chị Thủy phải bỏ công việc may vá để cạo gió lại cho mẹ.
Một kỷ niệm khác cũng rất đặc biệt, đó là em dám ngủ lại một mình trong rừng. Bữa đó là ngày thứ Năm và hai mẹ con hết lương thực. Mẹ tiếc công đi vào rừng nên tính toán là một trong hai sẽ về nhà lấy thêm thức ăn cho hai ngày còn lại. Khoảng 3 hay 4 giờ chiều gì đó thì quyết định là mẹ về, em ở lại. Khi biết tin những người chung quanh cũng sẽ về hết chiều nay, và chỉ mỗi mình ở lại giữa rừng, em vẫn cảm thấy thoải mái, dù sao thì chung quanh đây cũng chỉ có mấy con khỉ chứ có gì nguy hiểm đâu. Khi mọi người đã ra về, em tranh thủ tắm rửa sớm, chuẩn bị củi lửa thật đầy đủ, rồi ăn cơm, dọn dẹp, làm mọi chuyện như bình thường mình vẫn làm để tự trấn an mình. Nhưng càng về đêm thì dần dần xuất hiện nhiều cảm giác mà bình thường không có. Không gian tĩnh lặng là thứ đầu tiên phải nếm trải, bình thường thì có tiếng người, có âm thanh sinh hoạt, bây giờ nó thinh lặng đến nỗi lỗ tai mình tự nó cứ căng lên, như để tìm kiếm âm thanh vậy. Đến khi khó chịu quá thì em bắt đầu tìm cách tạo ra âm thanh, ban đầu là thử hát, rồi kêu con chó lại nói chuyện nhưng cũng chẳng có hiệu quả. Tâm trạng càng căng thẳng thì muốn hút thuốc nhiều, nhưng hút nhiều thì dường như còn tệ hơn nữa. Thông thường thì 8 giờ tối đã bắt đầu đi ngủ mà hôm nay hơn 10 giờ em vẫn còn tỉnh queo. Hết thinh lặng thì lại bắt đầu để ý tiếng côn trùng và chim chóc, rồi suy đoán những âm thanh ấy là bình thường hay khác thường. Nằm mãi vẫn không ngủ được thì bắt đầu suy nghĩ đến những chuyện mà mình đã từng nghe kể về ông thượng này, bà thượng nọ, đến khi cảm thấy sợ thì lại phải xua đuổi cái suy nghĩ đó đi. Lâu lâu lại kiểm tra xem con dao và cây súng có còn ở đúng chỗ hay không, rồi lại tưởng tượng đến những tình huống bất ngờ có thể xảy ra, lỡ có ai xuất hiện thì mình phải làm sao... May mắn là suốt đêm đó không có biến cố gì, có lẽ con chó nó không mất ngủ, còn em thì ngủ vật vờ được vài tiếng khoảng từ 2 giờ đến 4 giờ sáng. Biết là không thể ngủ tiếp được, em thức dậy pha cà phê rồi chuẩn bị súng hơi đi bắn chim. Thức dậy buổi sáng để chờ thấy mặt trời thì nó nhẹ nhàng và thoải mái hơn rất nhiều so với thời gian màn đêm buông xuống, khoảng thời gian cũng chỉ cách đây có mấy tiếng đồng hồ.
Khi đã thấy đường đi, em vác súng và mang theo cà phê ra ngoài bắn chim. Ở gần chòi có cây trứng cá, chim cu-rúc về ăn rất đông. Mình bắn trúng thì nghe tiếng "độp", một con rớt xuống đất, các con khác vẫn tiếp tục ăn, lại lắp đạn vào nhắm bắn tiếp. Bắn chán chê rồi thì lội vô gốc cây lặt chim, chỉ khi đó thì những con còn lại nó mới bay đi. Em chỉ nhớ chuyện bắn chim mà lại không nhớ sau đó làm món gì.
Khoảng 8 giờ sáng thì mẹ vô tới, em cũng không tỏ cho mẹ biết là tối hôm qua mình gặp rắc rối, coi như mọi chuyện đều êm xuôi. Nhưng có lẽ nếu xảy ra trường hợp tương tự thì em sẽ không chọn ở một mình giữa rừng nữa, vì sẽ bỏ phí một đêm không ngủ.
(Sơn: Giang kể lại tâm trạng sợ hãi trong đêm tối thật hay, ngắn gọn và đầy đủ. Anh nghĩ là nếu em ngủ lại trong rừng đêm thứ hai, em sẽ dần quen, và bớt lo âu sợ hãi hơn. Rồi nếu có lần thứ ba hay lần thứ tư, thì việc ngủ đêm một mình trong rừng sẽ không còn là điều gì ghê gớm nữa. Anh không có những lần sợ hãi thâu đêm như thế, nhưng anh có nhận xét là sự khác biệt giữa ngày và đêm, giữa tối và sáng, đã làm ý thức và cảm nhận của mình rối loạn. Trong bóng đêm, con người cảm thấy yếu đuối, e dè hơn, rồi từ đó phát sinh sợ hãi.
Năm 1995, lần đầu tiên về thăm nhà, anh nhớ cả nhà mình đã kéo nhau vô tham quan rừng lạnh. Lúc đó là lần đầu tiên chị Xuân và chị Quỳnh Anh được thấy rừng thấy rẫy café. Trong miếng rẫy của mình có cái lều và căn gác. Hôm đó cả mấy anh em đã kéo nhau lên gác chơi và ăn trưa, hình như có ăn hột vịt lộn. Không biết tại sao những lần về thăm nhà sau này, không ai có ý định đi chơi rừng lạnh nữa, trong khi anh thấy đó là một nơi đi picnic thật thú vị.
Mình có được rẫy café ở rừng lạnh, đó là nhờ công của anh Nguyên, đã ngoại giao, hợp tác với bạn bè để khai phá rừng hoang. Anh nhớ vào thời buổi đầu tiên mới khai thác, cha đã viết thư cho anh nói sơ lược về dự định và nói anh gửi tiền mua xe càng vì rẫy nằm xa nhà, không có xe không thể làm gì được. Anh quên lúc đó anh gửi tiền về cho cha mẹ bằng cách nào, hình như là gửi cho chị Hiên, rồi chị ấy cầm lên trao tận tay cho cha mẹ. Chị Hiên thật có công rất lớn trong vai trò trung gian giữa các anh ở nước ngoài và gia đình mình, một người trung gian kín đáo, nhiệt tình, và đáng tin cậy.)
Tập làm văn
Cha không phải là giáo viên tiểu học nhưng đã dạy em kiến thức vỡ lòng về toán và văn, lúc em gần 10 tuổi, trước đó được chị Vân hoặc chị Trinh tập viết. Toán thì em hơi chậm làm cha bực mình nhưng cuối cùng cũng biết hết cộng trừ nhân chia. Môn văn mới rắc rối. Cha giảng giải đủ cách để em biết làm văn tả cảnh nhưng vì kết quả chỉ là sự tưởng tượng, không có một cách làm cụ thể, đáp án trở nên mơ hồ và em thoát không phải nộp bất kỳ bài tập làm văn nào. Dù vẫn suy nghĩ được nhưng lại không biết viết ra suy nghĩ của mình, cũng có thể nói là không dám viết vì sợ sai ý của người lớn, mình sẽ bị chọc ghẹo, bị nạt (nhiều người vẫn thích dùng cách nhắc nhở nặng nề nhưng với em thì thái độ dịu dàng kích thích mình thụ huấn mạnh hơn). Đến khi đi học ở trường em đã phải run sợ khi tới giờ học văn đầu tiên, may quá bữa đầu vắng mặt giáo viên, có một cô khác qua coi lớp, cô này ra một bài làm văn để giữ trật tự rồi trở về lớp của mình. Đề bài: Em hãy tả cây bút chì của em. Bữa đó bài làm của em là chép toàn bộ bài của người bên cạnh không sót một chấm một phẩy nào hết!!! Khi đi học cấp 2 thì tự làm được đôi chút nhưng cũng chỉ cố viết cho qua trang mà thôi. Không còn copy của bạn nữa mà bắt chước ý văn của nó, rồi đổi vài chữ để giáo viên khỏi phát hiện. Môn tập làm văn thực sự làm khổ em cho đến hết lớp 12. Tính từ khi đến trường đến khi tốt nghiệp phổ thông, bài tập làm văn cao nhất là 6 điểm, thông thường chỉ 4 mà thôi. Năm lớp 9 chị Tuyết cho một cuốn sổ đề nghị em viết nhật ký, nghe lời chị cũng miệt mài ngày này qua ngày khác nhưng kết quả không khá hơn. Một nỗi khổ khác nữa là em thuận tay trái mà viết bằng tay phải, lại hay bị rung tay nên viết chậm và yếu hơn nhiều người, đã từng cố gắng nắn nót theo nét chữ của anh Nguyên và anh Thạch nhưng thất bại vì không thể viết nhanh được. May mắn là năm lớp 10 có thằng bạn ngồi kề bên viết chữ xấu hơn thì mới tự an ủi mình được đôi chút.
Có lẽ em chỉ thực sự “tập làm văn” khi viết thư cho các anh chị, đặc biệt với anh Thạch và anh Sơn, bởi vì lúc đó mình có thể viết ra tất cả những gì mình suy nghĩ mà không sợ người kia bắt lỗi. Dần dần rút kinh nghiệm qua những lá thư, bắt đầu biết so sánh sản phẩm của mình với của người khác rồi từ đó mới sửa câu chữ, sắp xếp ý tứ,.... Chữ viết của anh Sơn có lẽ xấu nhất nhưng cách hành văn của anh đã mang lại nhiều cảm hứng khiến em cứ muốn hồi âm ngay sau mỗi lá thư. Ở điểm này, có thể nói anh Sơn đã nâng đỡ và dìu dắt suy nghĩ của em rất nhiều khi em ở tuổi Vị thành niên cũng như những diễn tiến cuộc đời về sau. (Sơn: Chữ anh viết xấu nhất, anh biết điều này, và anh cũng phải công nhận là chữ của cha rất đẹp. Sau này chữ của chị Tuyết, của Vân, Trinh và của Nguyên khá giống chữ của cha, tức là cũng tròn trĩnh, đều và bay bướm như thế. Chữ của Thạch và của Phong hơi giống nhau - có lẽ do Phong cố tình bắt chước anh Thạch, tuy không giống chữ của cha nhưng có những nét mềm mại và chắc chắn là đẹp hơn chữ anh nhiều. Nét chữ xấu của anh chắc là ảnh hưởng của mẹ - trong tập hồi ký này anh sẽ để ở phần phụ lục lá thư mẹ viết tay cho anh khi nhà mới dọn lên Ban mê thuột. Lúc bắt đầu tập viết, cha dùng bút chì viết những mẫu tự vào một cuốn tập có kẻ hàng, và anh phải dùng bút mực đồ theo. Quan niệm của cha là viết theo như thế thì dần dần chữ sẽ đẹp, và chắc chắn là cha cũng muốn các con của mình có nét chữ đẹp như của cha. Nhưng từ nhỏ anh đã quan niệm là chữ viết đẹp không cần thiết lắm, chỉ cần rõ ràng để dễ đọc, điều cần thiết chính là ý tưởng. Và anh cũng không tin là chữ mình có thể đẹp hơn nhờ tập luyện như thế hay xấu đi vì không chịu tập viết, cho nên anh tập viết một cách lơ là. Có lẽ anh đi trước thời đại một chút, vì bây giờ có mấy người dùng bút nữa đâu, tất cả đều qua máy tính.)
(Phong: Như vậy là anh giống chị Tuyết và Giang về cái khoản làm văn. Bài tập làm văn của anh cũng chỉ cầu mong được trên trung bình. Trong bài làm không hề có lỗi chính tả hay lỗi ngữ pháp nhưng ý tứ thì nghèo nàn, câu văn không lả lướt, bóng bẩy. Nói tóm lại bài làm mới đạt được yêu cầu về kỹ thuật chưa thể gọi là văn chương. Ngay như viết thư cũng vậy, phải mất cả tiếng đồng hồ anh mới hoàn thành được một lá thư dài cỡ hai trang vở học trò. Đọc một bài thơ, một cuốn truyện anh vẫn cảm nhận được cái hay cái đẹp của nó nhưng để làm cho được như vậy có lẽ cần phải học tập nhiều và ít ra cũng cần phải có một tí năng khiếu. Anh nhớ những năm học lớp 6, lớp 7 có đứa bạn làm văn rất hay. Hầu như tất cả các bài tập làm văn sau khi chấm xong thầy giáo đều đọc bài của nó lên cho cả lớp nghe bởi vì quá xuất sắc. Mình viết được 2 trang vở chứ nó viết phải đến 2 cặp giấy vở. Anh nghĩ nó sẽ là nhà văn trong tương lai. Rất tiếc đến giờ không còn tin tức gì về nó để xem có phải vậy không. Năm 1973 sau khi các bên ký hiệp định Paris, ai cũng nghĩ là hòa bình đã đến. Trường anh có tổ chức làm một tập san với chủ đề hòa bình và mở cuộc thi viết truyện, làm thơ. Bài nào đoạt giải thì được đăng trên tập san đó. Anh cũng rất thích chủ đề này và trong tâm trạng vui mừng vì đất nước đã được hòa bình, anh cặm cụi viết một truyện ngắn. Cũng tốn nhiều công sức và rất tâm đắc với tác phẩm của mình thế nhưng sau khi chấm thì chẳng thấy bài của mình đâu cả.)
Có lẽ em chỉ thực sự “tập làm văn” khi viết thư cho các anh chị, đặc biệt với anh Thạch và anh Sơn, bởi vì lúc đó mình có thể viết ra tất cả những gì mình suy nghĩ mà không sợ người kia bắt lỗi. Dần dần rút kinh nghiệm qua những lá thư, bắt đầu biết so sánh sản phẩm của mình với của người khác rồi từ đó mới sửa câu chữ, sắp xếp ý tứ,.... Chữ viết của anh Sơn có lẽ xấu nhất nhưng cách hành văn của anh đã mang lại nhiều cảm hứng khiến em cứ muốn hồi âm ngay sau mỗi lá thư. Ở điểm này, có thể nói anh Sơn đã nâng đỡ và dìu dắt suy nghĩ của em rất nhiều khi em ở tuổi Vị thành niên cũng như những diễn tiến cuộc đời về sau. (Sơn: Chữ anh viết xấu nhất, anh biết điều này, và anh cũng phải công nhận là chữ của cha rất đẹp. Sau này chữ của chị Tuyết, của Vân, Trinh và của Nguyên khá giống chữ của cha, tức là cũng tròn trĩnh, đều và bay bướm như thế. Chữ của Thạch và của Phong hơi giống nhau - có lẽ do Phong cố tình bắt chước anh Thạch, tuy không giống chữ của cha nhưng có những nét mềm mại và chắc chắn là đẹp hơn chữ anh nhiều. Nét chữ xấu của anh chắc là ảnh hưởng của mẹ - trong tập hồi ký này anh sẽ để ở phần phụ lục lá thư mẹ viết tay cho anh khi nhà mới dọn lên Ban mê thuột. Lúc bắt đầu tập viết, cha dùng bút chì viết những mẫu tự vào một cuốn tập có kẻ hàng, và anh phải dùng bút mực đồ theo. Quan niệm của cha là viết theo như thế thì dần dần chữ sẽ đẹp, và chắc chắn là cha cũng muốn các con của mình có nét chữ đẹp như của cha. Nhưng từ nhỏ anh đã quan niệm là chữ viết đẹp không cần thiết lắm, chỉ cần rõ ràng để dễ đọc, điều cần thiết chính là ý tưởng. Và anh cũng không tin là chữ mình có thể đẹp hơn nhờ tập luyện như thế hay xấu đi vì không chịu tập viết, cho nên anh tập viết một cách lơ là. Có lẽ anh đi trước thời đại một chút, vì bây giờ có mấy người dùng bút nữa đâu, tất cả đều qua máy tính.)
(Phong: Như vậy là anh giống chị Tuyết và Giang về cái khoản làm văn. Bài tập làm văn của anh cũng chỉ cầu mong được trên trung bình. Trong bài làm không hề có lỗi chính tả hay lỗi ngữ pháp nhưng ý tứ thì nghèo nàn, câu văn không lả lướt, bóng bẩy. Nói tóm lại bài làm mới đạt được yêu cầu về kỹ thuật chưa thể gọi là văn chương. Ngay như viết thư cũng vậy, phải mất cả tiếng đồng hồ anh mới hoàn thành được một lá thư dài cỡ hai trang vở học trò. Đọc một bài thơ, một cuốn truyện anh vẫn cảm nhận được cái hay cái đẹp của nó nhưng để làm cho được như vậy có lẽ cần phải học tập nhiều và ít ra cũng cần phải có một tí năng khiếu. Anh nhớ những năm học lớp 6, lớp 7 có đứa bạn làm văn rất hay. Hầu như tất cả các bài tập làm văn sau khi chấm xong thầy giáo đều đọc bài của nó lên cho cả lớp nghe bởi vì quá xuất sắc. Mình viết được 2 trang vở chứ nó viết phải đến 2 cặp giấy vở. Anh nghĩ nó sẽ là nhà văn trong tương lai. Rất tiếc đến giờ không còn tin tức gì về nó để xem có phải vậy không. Năm 1973 sau khi các bên ký hiệp định Paris, ai cũng nghĩ là hòa bình đã đến. Trường anh có tổ chức làm một tập san với chủ đề hòa bình và mở cuộc thi viết truyện, làm thơ. Bài nào đoạt giải thì được đăng trên tập san đó. Anh cũng rất thích chủ đề này và trong tâm trạng vui mừng vì đất nước đã được hòa bình, anh cặm cụi viết một truyện ngắn. Cũng tốn nhiều công sức và rất tâm đắc với tác phẩm của mình thế nhưng sau khi chấm thì chẳng thấy bài của mình đâu cả.)
Bệnh phù thận
Lúc còn học tiểu học bé không nhớ chính xác là hè năm nào và mình mấy tuổi, chỉ nhớ là học chung và hay chơi với Thủy con Bà Chánh (người Huế). Dịp đó em bị bệnh, đầu tiên là bị đau bụng sau đó bị sốt kèm theo. Bệnh cứ kéo dài mãi uống thuốc hoài mà không thấy bớt, trong lúc đang đau quằn quại nằm mềm ở trên võng thì nghe tin Thủy con bà Chánh cũng bị sốt và đã chết. Lúc đó đang mệt quá hay sao mà không thấy buồn vì mất bạn mà chỉ cảm giác sợ mình cũng chết giống như Thủy, ngày đi chôn Thủy mình còn ráng đi ra để nhìn đám ma. Sau một thời gian dài uống thuốc nhưng bệnh vẫn không hết nên cha đành quyết định đưa lên bệnh viện khám, cuối cùng bác sĩ chẩn đoán bị phù thận.
Hằng ngày bà Nhuận đến chính thuốc ambi đau quá chừng, chích riết đến nỗi mông sưng lên một cục cứng ngăc đến nỗi đi không nổi. Vì đi không nổi nên cứ sáng cha bồng xuống võng nằm, tối lại cha bồng lên giường ngủ và hằng ngày phải lấy chai nước nóng lăn cho tan chỗ cứng. Lần đó bị bệnh lâu quá đến nỗi sau này hết bệnh run lẩy bẩy đi như muốn té. Thời gian đó có lần anh Phong về chơi và cõng em đi lên bệnh viện tái khám, khi anh Phong cõng từng bước đi của anh Phong cứ xóc từng nhịp làm cho thân gầy của bé cấn vào hông anh Phong đau quá chừng, đi từ nhà lên bệnh viện có mấy trăm mét mà thấy lâu như đi mấy cây số vậy. (Sơn: vì em đi không nổi mà phải dùng tới biện pháp cõng thì em đã bị kiệt quệ vô cùng. Mà anh Phong cõng được em thì chắc lúc đó em cũng còn nhỏ, nhưng nhỏ mấy mà cõng một quãng đường xa như thế lại lên dốc xuống dốc nữa, thì anh Phong chắc cũng tháo mồ hôi ! Anh không nhớ gì về chuyện này, có thể xảy ra sau khi anh và anh Thạch đã đi.)
Mỗi khi mình bị bệnh ngủ thường hay gặp ác mộng làm cho mình sợ, ban ngày mọi người ai cũng đi đây đó thì mình nằm một nơi cảm thấy sợ sệt và cần thấy bóng người đi qua lại để có cảm giác an tâm. Nhưng khi mình trông thì mình lại càng thấy thời gian dường như càng dài. Ở Đakmil lúc đó xứ “khỉ ho cò gáy” mà bé thoát chết chắc là tại cao số.
(Phong: Như vậy là ngoài anh, anh Sơn, anh Thạch đã phải vào bệnh viện còn có em cũng đã trong cơn thập tử nhất sinh. Anh nhớ có nghe kể anh Nguyên có lần cũng bị bệnh nặng lắm, hình như cũng suýt chết thì phải. Lần ấy, có lẽ trong dịp nghỉ hè, anh về thăm nhà, lúc đó em đã qua cơn nguy kịch. Anh cõng em đi lên bệnh viện huyện nằm trên dốc Dầu để tái khám. Bệnh viện lúc đó chưa được xây dựng khang trang, to lớn như bây giờ; điều kiện máy móc, thiết bị, con người cũng chưa có gì cả. Anh nhớ họ chỉ xem sơ qua rồi cho về thôi. Anh lúc đó là một chàng trai mới hai mươi tuổi đầu cõng một em bé ốm nhom do mới bệnh dậy thì có lẽ chẳng khó nhọc gì lắm, với lại lúc đó đâu còn phương tiện nào khác để cho em được thoải mái, nhẹ nhàng hơn.)
Hằng ngày bà Nhuận đến chính thuốc ambi đau quá chừng, chích riết đến nỗi mông sưng lên một cục cứng ngăc đến nỗi đi không nổi. Vì đi không nổi nên cứ sáng cha bồng xuống võng nằm, tối lại cha bồng lên giường ngủ và hằng ngày phải lấy chai nước nóng lăn cho tan chỗ cứng. Lần đó bị bệnh lâu quá đến nỗi sau này hết bệnh run lẩy bẩy đi như muốn té. Thời gian đó có lần anh Phong về chơi và cõng em đi lên bệnh viện tái khám, khi anh Phong cõng từng bước đi của anh Phong cứ xóc từng nhịp làm cho thân gầy của bé cấn vào hông anh Phong đau quá chừng, đi từ nhà lên bệnh viện có mấy trăm mét mà thấy lâu như đi mấy cây số vậy. (Sơn: vì em đi không nổi mà phải dùng tới biện pháp cõng thì em đã bị kiệt quệ vô cùng. Mà anh Phong cõng được em thì chắc lúc đó em cũng còn nhỏ, nhưng nhỏ mấy mà cõng một quãng đường xa như thế lại lên dốc xuống dốc nữa, thì anh Phong chắc cũng tháo mồ hôi ! Anh không nhớ gì về chuyện này, có thể xảy ra sau khi anh và anh Thạch đã đi.)
Mỗi khi mình bị bệnh ngủ thường hay gặp ác mộng làm cho mình sợ, ban ngày mọi người ai cũng đi đây đó thì mình nằm một nơi cảm thấy sợ sệt và cần thấy bóng người đi qua lại để có cảm giác an tâm. Nhưng khi mình trông thì mình lại càng thấy thời gian dường như càng dài. Ở Đakmil lúc đó xứ “khỉ ho cò gáy” mà bé thoát chết chắc là tại cao số.
(Phong: Như vậy là ngoài anh, anh Sơn, anh Thạch đã phải vào bệnh viện còn có em cũng đã trong cơn thập tử nhất sinh. Anh nhớ có nghe kể anh Nguyên có lần cũng bị bệnh nặng lắm, hình như cũng suýt chết thì phải. Lần ấy, có lẽ trong dịp nghỉ hè, anh về thăm nhà, lúc đó em đã qua cơn nguy kịch. Anh cõng em đi lên bệnh viện huyện nằm trên dốc Dầu để tái khám. Bệnh viện lúc đó chưa được xây dựng khang trang, to lớn như bây giờ; điều kiện máy móc, thiết bị, con người cũng chưa có gì cả. Anh nhớ họ chỉ xem sơ qua rồi cho về thôi. Anh lúc đó là một chàng trai mới hai mươi tuổi đầu cõng một em bé ốm nhom do mới bệnh dậy thì có lẽ chẳng khó nhọc gì lắm, với lại lúc đó đâu còn phương tiện nào khác để cho em được thoải mái, nhẹ nhàng hơn.)
Với âm nhạc và cây đàn ghi-ta
Bài học ghi-ta vỡ lòng do thằng Tân con ông Xuân dạy, đó là đoạn nhạc “Đào vừa ra hoa, cành lá gió đưa vờn trăng tà...”. (Phần mở đầu bài Kachiusa) Đánh bài này rất đơn giản vì chỉ sử dụng dây số 1, dây số 2 và vài phím bấm. Lúc ấy tay em chưa đủ dài để ôm đàn nên đưa đàn ra ngoài sân đặt nằm trên ghế để tập, nó đánh vài lần rồi em lập lại, dường như có ai đã chỉ cho nó nên nó chỉ lại cho em rất là tự tin. Em cảm nhận âm nhạc rất mạnh. Ngoài bài Đi Qua Vùng Cỏ Non cha tập, còn lại đều nghe và hát theo do đó mà chỉ thuộc từng đoạn chứ không hết bài. Mỗi lần các anh đờn hát đều để lại âm thanh trong đầu và sau đó em tự tập theo. Lúc còn nhỏ xíu đã thích bài Thà Như Giọt Mưa khi nghe anh Thạch mở băng cassette, nghe cha hát Bài Thơ Vu Qui trong đám cưới nhà ông Nhàn, cha cũng hay hát Tiếng Còi Trong Sương Đêm, Hòn Vọng Phu 3, tiếp sau đó là những bài hát anh Nguyên cùng hát với bạn bè tại nhà, mấy anh ngồi trên giường đờn hát thì em lân la từ phía sau, mỗi khi mấy anh rút đi thì em cầm đờn thực tập lại những gì nãy giờ mình nghe được, rất thích thú khi đánh lại đúng những gì mình đang tưởng tượng, hoàn toàn không có khái niệm về hợp âm hay điệu nhạc, đơn giản chỉ thích mò mẫm thôi. Nghe chị Trinh hát “Gởi hồn trong băng giá, lắng nghe mưa thu suốt đời lãng du ...”. Với anh Phong thì Một Đời Người Một Rừng Cây. Có lần ở nhà chỉ có Quang Giang Vũ, hình như tất cả đã đi Sài gòn, buổi tối anh Thế ghé chơi hát Ghế Đá Công Viên và em đã đệm rất tốt, anh Thế vui thấy rõ, lần đó em cảm nhận được tiếng đàn của mình mang lại niềm vui cho người khác như thế nào. Tất cả những âm thanh ấy đều còn đọng lại mà hầu như rất khó xác định trình tự thời gian. Không biết cây đàn ghi-ta cũ ở nhà mình cuối cùng đi đâu nhưng nó đã để lại trong em những ấn tượng không thể quên, từ khi nó còn khá nguyên vẹn cho đến khi nó te tua phải chỉnh dây bằng kềm vì núm nhựa đã bị gãy, có lần đứt dây anh Nguyên phải tìm cách nối lại.
Nhớ thời cha đưa em vào hát bè thủy, (ca đoàn Xã Đoài chia làm 4 bè Kim Mộc Thủy và Thổ) có một buổi tối tập hát sau giờ kinh chiều tại nhà thờ, chỉ có mình em hát đúng, còn lại cả chục bạn tập mãi vẫn không thuộc, bữa đó cha đành bó tay bỏ dở vì đã quá trễ phải ra về. Em thuộc các bài hát trong nhà thờ đều do cha tập, điều này chắc chắn, mặc dù không có nhiều ấn tượng về các lần tập hát, có lẽ do mình thực hiện quá dễ dàng không phải tập trung cố gắng chăng, vì đến khi ở Sài gòn, đi lễ ở nhà thờ Thị Nghè và nhiều nơi khác đã phát hiện là có một số bài mình hát khác người ta đôi chút. Có dịp kiểm lại bản nhạc mới biết là cha đã tự sửa các bài đó rồi tập cho cộng đoàn.
Đến khi đi học lên cấp 2 và có dịp tập hát thấy người ta vất vả để giữ bè, hát sai sửa lại không được trong khi mình làm chuyện đó dễ dàng thì mới biết mình có khiếu âm nhạc. Năm học lớp 10, trong lớp có anh bạn được phân công đệm đàn tập văn nghệ, đến khi ca sĩ thấy cao quá hát không nổi đề nghị đổi tông thì anh này chịu không thể đệm được nữa, cuối cùng cơ hội nó tới với mình.
Điều lạ là, tất cả anh chị trong nhà, cả cha nữa đều không khuyến khích em phát triển âm nhạc, mà chỉ có mỗi mình Cậu. Có lẽ vì thời kinh tế bao cấp, cuộc sống đói khổ và vất vả quá. Cũng có thể đây là đặc tính của dân xứ Nghệ, muốn người khác phải tự hiểu ý mình còn mình lại chẳng biết phải nói ra làm sao.
(Thạch : Giang là người có lỗ tai âm nhạc rất nhạy bén, lúc chưa biết nói là đã biết hát rồi. Chị Vân, chị Trinh, anh Nguyên hay hát ru Giang bằng những bài ca sinh hoạt nên lúc Giang chưa nói được mà vẫn có thể âm ư đúng giọng những bài hát đó. Những ngày Giang lớn lên ở Bmt, địa điểm sinh hoạt thường xuyên của anh chị em trong nhà chắc là nơi cái bàn ăn trong nhà bếp)
Nhớ thời cha đưa em vào hát bè thủy, (ca đoàn Xã Đoài chia làm 4 bè Kim Mộc Thủy và Thổ) có một buổi tối tập hát sau giờ kinh chiều tại nhà thờ, chỉ có mình em hát đúng, còn lại cả chục bạn tập mãi vẫn không thuộc, bữa đó cha đành bó tay bỏ dở vì đã quá trễ phải ra về. Em thuộc các bài hát trong nhà thờ đều do cha tập, điều này chắc chắn, mặc dù không có nhiều ấn tượng về các lần tập hát, có lẽ do mình thực hiện quá dễ dàng không phải tập trung cố gắng chăng, vì đến khi ở Sài gòn, đi lễ ở nhà thờ Thị Nghè và nhiều nơi khác đã phát hiện là có một số bài mình hát khác người ta đôi chút. Có dịp kiểm lại bản nhạc mới biết là cha đã tự sửa các bài đó rồi tập cho cộng đoàn.
Đến khi đi học lên cấp 2 và có dịp tập hát thấy người ta vất vả để giữ bè, hát sai sửa lại không được trong khi mình làm chuyện đó dễ dàng thì mới biết mình có khiếu âm nhạc. Năm học lớp 10, trong lớp có anh bạn được phân công đệm đàn tập văn nghệ, đến khi ca sĩ thấy cao quá hát không nổi đề nghị đổi tông thì anh này chịu không thể đệm được nữa, cuối cùng cơ hội nó tới với mình.
Điều lạ là, tất cả anh chị trong nhà, cả cha nữa đều không khuyến khích em phát triển âm nhạc, mà chỉ có mỗi mình Cậu. Có lẽ vì thời kinh tế bao cấp, cuộc sống đói khổ và vất vả quá. Cũng có thể đây là đặc tính của dân xứ Nghệ, muốn người khác phải tự hiểu ý mình còn mình lại chẳng biết phải nói ra làm sao.
(Thạch : Giang là người có lỗ tai âm nhạc rất nhạy bén, lúc chưa biết nói là đã biết hát rồi. Chị Vân, chị Trinh, anh Nguyên hay hát ru Giang bằng những bài ca sinh hoạt nên lúc Giang chưa nói được mà vẫn có thể âm ư đúng giọng những bài hát đó. Những ngày Giang lớn lên ở Bmt, địa điểm sinh hoạt thường xuyên của anh chị em trong nhà chắc là nơi cái bàn ăn trong nhà bếp)
3 chị em & 1 trái ớt
Con nít mà dám ăn ớt là rất dũng cảm. Có lẽ lúc đó cả 3 chị em đều nghĩ như vậy. Và trong một buổi chiều mọi người đều vắng nhà, Quang, Giang, Vũ bới một tô cơm đầy và bàn với nhau là sẽ cùng ăn một trái ớt to, loại ớt mà mình đã từng nghe là nó không cay. Tinh thần dù đang lên rất cao nhưng Giang và Vũ đều không dám ăn trước, cuối cùng chị Quang đã mở đầu, cắn một phần ba trái ớt. Cắn xong đưa liền trái ớt cho Giang, Giang cũng cắn tiếp một phần 3 nữa, còn lại đưa cho Vũ, Vũ làm luôn phần còn lại sát cuống rồi ba chị em chạy ra sau giếng múc nước uống giải cay. Hôm vừa rồi em mới gặp Vũ được nghe kể thêm một chi tiết là lúc ấy thùng nước chỉ có vài mươi phân dưới đáy, chị Quang chúc đầu vào múc nước cho hai em, trong lúc chờ đợi chịu không nổi thì cả Giang và Vũ đều đứng khóc!!! (Quang: Động lực ăn ớt là do chị thấy mỗi bữa cơm anh Thạch cắn trái ớt và nhai ngấu nghiến một cách thích thú với vẻ mặt rất thỏa mãn làm cho chị thấy tò mò, một hôm chỉ còn ba chị em ở nhà là điều kiện thuận lợi để thực hiện ý đồ thử. Khi chị nói lên sự việc thì Giang và Vũ đồng tình hưởng ứng ngay nên phải chạy qua nhà ông lâm xin trái ớt to cho đỡ cay về thử. Lúc ăn xong cay quá phải múc nước mưa chứa trong thùng phi bên hông nhà để uống, xui là thùng phi cạn tới đáy làm cho chị phải trèo chúi ngược vào trong múc ra cho ba chị em cùng uống. Tội nghiệp Vũ là người cắn sau cùng là phần cay nhất của trái ớt). (Sơn: Nhu cầu thể hiện mình, nhu cầu được tự do làm điều mình muốn, hay làm những điều người lớn làm được … đó là nhu cầu tự nhiên của đứa trẻ. Làm điều này một mình hay với bạn bè thì không có gì lạ, nhưng làm điều đó ngay trong nhà chung với chị em mình, là một nét rất đặc biệt. Nó chứng tỏ rằng khi còn nhỏ, Quang Giang Vũ rất thân thiết gần gũi với nhau. Rút kinh nghiệm Giang nha, khi bị cay, uống nước lạnh không làm hết cay, mà phải uống nước ấm hay nước hơi nóng một chút thì nó mới làm các tế bào xúc giác ở lưỡi trở lại bình thường).
Giờ kinh tối
Từ khi có trí khôn, điều mà bé ấn tượng đầu tiên là giờ đọc kinh tối. Giờ kinh tối được cha mẹ quan tâm nhất trong mọi sinh hoạt của gia đình, không chỉ là giờ đọc kinh đơn thuần như ngày ăn ba bữa mà như là một giờ cha tổng kết một ngày sinh hoạt của gia đình đồng thời nhắc nhở những thiếu sót của ai đó đã mắc phải và hướng cho con cái biết nhìn nhận cách sống theo tinh thần Chúa mời gọi. Buổi đọc kinh tối thường được bắt đầu sau bữa cơm tối xong xuôi. Giang tính tình hiền lành và ngoan ngoãn nên luôn đứng cạnh bên cha, còn Thủy Quang Vũ thì ngồi xa hơn một chút, tuy không có sự sắp xếp cụ thể nào nhưng cứ tới giờ đọc kinh là Giang xách ghế lại ngồi bên cha. Buổi đọc kinh thường được bắt đầu là Thủy, Quang hay Giang đọc một đoạn phúc âm, sau đó cha chia sẻ ý chính của bài phúc âm rồi đọc một chục hạt sau cùng đọc một bài giáo lý. Buổi đọc kinh thường chỉ vỏn vẹn trong vòng 15 phút nhưng điều đáng nói là mấy chị em ít khi mà đọc một cách sốt sắng được. (Sơn: cha đã thích nghi buổi kinh tối theo thời đại bằng cách thay đổi hình thức và nội dung. Thời anh còn nhỏ, ở nhà đọc kinh tối thường là lần hết cả năm chục hạt và thêm nhiều kinh khác, rất lâu. Cũng ít hay hầu như không có đọc Lời Chúa và chia sẻ giáo lý gì hết) Trước giờ đọc kinh thì nói đùa rôm rả nhưng bắt đầu giờ đọc kinh là bỗng nhiên đua nhau ngủ gục. Nhiều lần như vậy mấy chị em tìm mọi cách để chống lại cơn buồn ngủ, không nhớ từ đâu có cái súng nước và ai bày đầu mà một ngày nọ bàn bạc với nhau sẽ đem súng nước vào giờ đọc kinh nếu ai ngủ gục thì sẽ bắn. Hôm đó mấy chị em ai cũng cảnh giác với cái súng nước nên đều tỉnh ngủ, riêng Giang vì ngồi gần cha và xa mấy chị em nên cũng như mọi ngày ung dung ngủ gục. Nhưng Giang ngồi gần cha nên không thể bắn nước đến Giang được, thấy thế mấy chị em tức cười quá phải nín cười nên không đọc kinh được, cuối cùng chỉ còn lại cha và mẹ đọc còn Giang vẫn tiếp tục ngủ. Cha nhìn thấy mấy chị em cười không đọc kinh mà không la mắng một lời, còn Giang sau một hồi gật gà gật gù giật mình tỉnh dậy nhìn qua thấy mấy chị em ngồi bên kia đang cười mình mới nhớ lại và tỉnh ngủ luôn. Buổi đọc kinh kết thúc mấy chị em được một bữa cười no nê, có điều làm bé suy nghĩ là tại sao cha không hề la mắng đến một câu. Đến bây giờ nghĩ lại mới thấy cha hiểu tâm lý con cái và cảm thông được với những phá phách của mình.
(Giang: Em hoàn toàn không biết mình được ưu ái, chỉ nhớ về những buổi tối đọc kinh khô khan và buồn tẻ, những buổi khác thì cảm thấy bị đối xử bất công do anh Nguyên được đi chơi, những buổi khác nữa thấy chị Thủy vừa ngủ gục vừa đọc kinh. Hồi anh Phong đi bộ đội cha rất hay đọc lời cầu nguyện cho anh được bình an, và em nhớ cha luôn nhắc trong những buổi kinh sáng. Đến bây giờ em cảm thấy rằng việc cầu nguyện không hề dễ dàng: có lúc thì mình cảm thấy được gần Chúa, vô cùng sung sướng mãn nguyện, lúc khác thì cảm thấy đơn độc và khô khan, chưa kể những lúc chán nản chẳng thiết tha cầu nguyện. Nhưng, điều tích cực của việc áp đặt giờ cầu nguyện là nó sẽ đưa mình tiến dần vào thế giới tâm linh, bất kể giờ cầu nguyện đó mang lại cảm giác như thế nào.) (Sơn: Rất lạ ! Giang không đi tu mà những suy nghĩ và chia sẻ của Giang thấm nhuần tư tưởng tu đức và thiêng liêng ! Cầu nguyện vừa dễ mà vừa khó, có khi nó mang lại an ủi và bình an cho mình, có khi nó khô khan lạt lẽo và chán nản dễ sợ, như điều Giang đã cảm nghiệm và chia sẻ. Chính vì thế mà các nhà tu đức thường dùng hình ảnh Sa Mạc hay ý nghĩa của Đêm Tối để ám chỉ những khoảnh khắc mình không còn hứng thú cầu nguyện, không còn cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong đời mình nữa. Kết luận là dầu trong sa mạc tĩnh mịch, dầu trong đêm tối âm u, Chúa vẫn hiện diện bên cạnh mình. Ý thức về sự hiện diện của Chúa đã là một cầu nguyện rồi. Có lẽ phải nói tới cầu nguyện như một thái độ của tâm hồn khiêm cung rộng mở đón nhận Chúa hơn là hành động mở miệng thốt nên lời kinh.)
(Tuyết : Các con nào đến tuổi khôn thì mới phải đọc kinh dài với cha mẹ. Lúc còn nhỏ hơn thì cha tập cho cầu nguyện vắn tắt đôi câu để cám ơn Chúa rồi được đi ngủ trước. Chuyện này lúc chị còn nhỏ, ở trên Quản Lợi. Tối đến, chị đứng trước bàn thờ Chúa, làm dấu Thánh giá trước khi đọc kinh. Cha dạy đọc « Nhân danh Cha . .. » , chị cũng đọc Nhân danh Cha, nhưng không hiểu tại sao cha cứ nghe ra là Nhân danh « che». Chị đã để ý và cảm thấy mình đọc rất đúng là « cha » chứ có đọc «che » đâu, mà sao cha cứ nghe thành « che» hoài và bắt sửa đi sửa lại nhiều lần cho đúng. Lạ thật ! Cái tật ngọng ngịu ấy kéo dài và tự nhiên biến mất lúc nào không hay !)
(Giang: Em hoàn toàn không biết mình được ưu ái, chỉ nhớ về những buổi tối đọc kinh khô khan và buồn tẻ, những buổi khác thì cảm thấy bị đối xử bất công do anh Nguyên được đi chơi, những buổi khác nữa thấy chị Thủy vừa ngủ gục vừa đọc kinh. Hồi anh Phong đi bộ đội cha rất hay đọc lời cầu nguyện cho anh được bình an, và em nhớ cha luôn nhắc trong những buổi kinh sáng. Đến bây giờ em cảm thấy rằng việc cầu nguyện không hề dễ dàng: có lúc thì mình cảm thấy được gần Chúa, vô cùng sung sướng mãn nguyện, lúc khác thì cảm thấy đơn độc và khô khan, chưa kể những lúc chán nản chẳng thiết tha cầu nguyện. Nhưng, điều tích cực của việc áp đặt giờ cầu nguyện là nó sẽ đưa mình tiến dần vào thế giới tâm linh, bất kể giờ cầu nguyện đó mang lại cảm giác như thế nào.) (Sơn: Rất lạ ! Giang không đi tu mà những suy nghĩ và chia sẻ của Giang thấm nhuần tư tưởng tu đức và thiêng liêng ! Cầu nguyện vừa dễ mà vừa khó, có khi nó mang lại an ủi và bình an cho mình, có khi nó khô khan lạt lẽo và chán nản dễ sợ, như điều Giang đã cảm nghiệm và chia sẻ. Chính vì thế mà các nhà tu đức thường dùng hình ảnh Sa Mạc hay ý nghĩa của Đêm Tối để ám chỉ những khoảnh khắc mình không còn hứng thú cầu nguyện, không còn cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong đời mình nữa. Kết luận là dầu trong sa mạc tĩnh mịch, dầu trong đêm tối âm u, Chúa vẫn hiện diện bên cạnh mình. Ý thức về sự hiện diện của Chúa đã là một cầu nguyện rồi. Có lẽ phải nói tới cầu nguyện như một thái độ của tâm hồn khiêm cung rộng mở đón nhận Chúa hơn là hành động mở miệng thốt nên lời kinh.)
(Tuyết : Các con nào đến tuổi khôn thì mới phải đọc kinh dài với cha mẹ. Lúc còn nhỏ hơn thì cha tập cho cầu nguyện vắn tắt đôi câu để cám ơn Chúa rồi được đi ngủ trước. Chuyện này lúc chị còn nhỏ, ở trên Quản Lợi. Tối đến, chị đứng trước bàn thờ Chúa, làm dấu Thánh giá trước khi đọc kinh. Cha dạy đọc « Nhân danh Cha . .. » , chị cũng đọc Nhân danh Cha, nhưng không hiểu tại sao cha cứ nghe ra là Nhân danh « che». Chị đã để ý và cảm thấy mình đọc rất đúng là « cha » chứ có đọc «che » đâu, mà sao cha cứ nghe thành « che» hoài và bắt sửa đi sửa lại nhiều lần cho đúng. Lạ thật ! Cái tật ngọng ngịu ấy kéo dài và tự nhiên biến mất lúc nào không hay !)
Văn hóa bới cơm
Ở nhà mình, trong mọi bữa ăn, mẹ luôn đảm nhận công việc cầm đôi đũa bếp bới cơm cho cả nhà. Có lần nhà mình mua củi, mấy anh chở củi tới bốc xếp xong vào ăn cơm thì mẹ cũng ngồi vào bàn, không ăn cơm mà chỉ bới cơm cho họ. Một lần khác nhà mình có khách, khi mẹ phát hiện nguy cơ thiếu cơm đã sớt bớt bát cơm của mẹ trở lại trong nồi một cách dễ dàng do mẹ ngồi sẵn bên nồi cơm. Đến một ngày kia, chị Thủy đi học ở Ban Mê Thuột đã mang về một cách làm mới: bới thêm một tô cơm, để vào đó một cái muỗng và đặt ở phía xa nồi cơm, ai ăn hết thì tự tay bới thêm mà không phải đưa bát cho người bới cơm nữa. Hôm đó lại không có cha mẹ và các anh chị khác nên chị Thủy đã tỏ thái độ nghiêm trang của một người lớn khi giáo huấn các em việc này. Em nhớ mãi cách tổ chức của chị Thủy vì qua đó em đã cảm nhận một bài học về sự công bằng trên bàn ăn. Ấn tượng về chị Thủy khi em còn nhỏ là chị Thủy thường có thái độ khó chịu, tiêu cực với người đối diện, nhưng đến khi đi học BMT về, có lẽ chỉ mỗi việc đó mà đã để lại ấn tượng đẹp cho tới bây giờ.
"Làm việc!"
Trong xóm nhà mình bây giờ có nhà ông bà Thủy. Chủ nhân trước đó là ai thì em không còn nhớ tên nhưng nhớ là đã từng có một ông thầy tu đeo kính cận, khi em còn rất nhỏ có những buổi sáng đi xuống đó chơi với một anh bạn tên Tân, cháu của ông ta.
Phong cách của ông thầy đó khác hẳn với những người thường, khi gặp lần đầu tiên ổng hỏi rất kỹ: cháu tên gì, con ai,...mình ấp a ấp úng thì ổng chờ đợi, nhắc lại câu hỏi, rồi ổng cho phép chơi cái này chơi cái kia, ổng có truyện tranh và sách dành cho thiếu nhi, cũng có một cái đàn gõ nữa. Đọc những cuốn sách thiếu nhi có hình thích vô cùng. Có lần em mượn sách ổng cũng cho và hỏi “mượn khi nào trả?”. Phải công nhận đây là cách cư xử rất đặc biệt bởi vì lúc đó mình có yêu cầu gì thì luôn bị người lớn nạt, còn ông này lại sẵn sàng đáp ứng và nói chuyện trao đổi với mình. Câu hỏi khi nào trả đúng là có ý giáo dục tinh thần trách nhiệm về việc mượn sách. (Sơn: Giang viết về ông thầy tu đeo kính cận làm anh nhớ lại kỷ niệm với thầy Bính bởi vì người đó chính là thầy Bính, bạn của anh. Anh không hề quen biết thầy Bính trước đó, nhưng vì ở gần nhà có dịp đi làm rẫy chung nên anh làm quen và hỏi thăm thì mới biết thầy Bính là một cựu tu sĩ dòng Chúa Cứu Thế đã hồi tục từ lâu rồi, và ông ấy đã lấy vợ. Người vợ của ông ta là em của cha Cương, cha sở của một giáo xứ nào đó trong vùng Đakmil mà anh không nhớ rõ tên. Trước giải phóng, thầy ấy là thông dịch viên tiếng Đức cho tòa đại sứ Đức ở SG và dạy học thêm nên cuộc sống sung túc giàu có lắm. Sau giải phóng khi về lập nghiệp ở Dakmil thầy ấy vẫn còn chiếc xe hơi Mini Austin của Anh quốc và nhiều máy móc vật dụng đắt giá trong nhà. Có một lần thầy ấy cho anh mượn cái máy xay thịt bằng tay, anh mang về nhà bỏ khoai sắn (củ mì) vô xay ra thành sợi. Điều tội nghiệp là vợ của thầy chết sớm lắm, hình như khi vừa sinh đứa con trai đầu lòng, hay sau đó vài tháng gì đó. Khi anh còn đi lại với thầy Bính thì không gặp người cháu tên Tân, mà chỉ gặp con trai của thầy tên là Long. Sau khi anh đi khỏi Xã đoài vài năm thì thầy ấy cũng đưa con đi nơi khác, không biết đi đâu. Trái đất tròn ! Vì vào năm 1993, anh đang chuẩn bị qua Pháp đám cưới thì gặp thầy Bính tại Montreal, và cả Long người con trai của thầy nữa. Nhưng sau lần đó lại mất liên lạc với nhau vì đổi nhà dời nhà. Anh tiếc lắm ! Trái đất lại tròn một lần nữa vì nhân dịp đám tang của một cha dòng Tên vào tháng 2 năm 2010, anh và anh Thạch lại tình cờ gặp được thầy Bính cùng với Long, người con trai duy nhất. Thầy Bính là một người tốt, nên không lạ gì mà em đã được đối xử tốt như thế !)
Nhưng ấn tượng nhất là mệnh lệnh: “Tân! Làm việc!”. Có lần đang chơi trước sân nhà, nghe mệnh lệnh xong em mới hỏi thằng Tân là làm việc gì, nó nói là hết giờ chơi rồi, giờ phải học rồi phải làm việc này làm việc kia, mọi thứ đã được sắp lịch rồi, hễ nghe nhắc làm việc là Tân tự biết phải làm gì. Bài học cho mình lúc đó là: khi nghe mệnh lệnh của Tân thì Giang phải cuốn gói đi về nhà. Bây giờ các cháu Vệ, Mục, Tinh, Loan Giao, Quỳnh Giao, Tường Thụy, Bờm có nhận được sách vở đủ loại từ cậu/chú/bác Giang thì đều xuất phát từ cách giáo dục của ông thầy đó hết.
Phong cách của ông thầy đó khác hẳn với những người thường, khi gặp lần đầu tiên ổng hỏi rất kỹ: cháu tên gì, con ai,...mình ấp a ấp úng thì ổng chờ đợi, nhắc lại câu hỏi, rồi ổng cho phép chơi cái này chơi cái kia, ổng có truyện tranh và sách dành cho thiếu nhi, cũng có một cái đàn gõ nữa. Đọc những cuốn sách thiếu nhi có hình thích vô cùng. Có lần em mượn sách ổng cũng cho và hỏi “mượn khi nào trả?”. Phải công nhận đây là cách cư xử rất đặc biệt bởi vì lúc đó mình có yêu cầu gì thì luôn bị người lớn nạt, còn ông này lại sẵn sàng đáp ứng và nói chuyện trao đổi với mình. Câu hỏi khi nào trả đúng là có ý giáo dục tinh thần trách nhiệm về việc mượn sách. (Sơn: Giang viết về ông thầy tu đeo kính cận làm anh nhớ lại kỷ niệm với thầy Bính bởi vì người đó chính là thầy Bính, bạn của anh. Anh không hề quen biết thầy Bính trước đó, nhưng vì ở gần nhà có dịp đi làm rẫy chung nên anh làm quen và hỏi thăm thì mới biết thầy Bính là một cựu tu sĩ dòng Chúa Cứu Thế đã hồi tục từ lâu rồi, và ông ấy đã lấy vợ. Người vợ của ông ta là em của cha Cương, cha sở của một giáo xứ nào đó trong vùng Đakmil mà anh không nhớ rõ tên. Trước giải phóng, thầy ấy là thông dịch viên tiếng Đức cho tòa đại sứ Đức ở SG và dạy học thêm nên cuộc sống sung túc giàu có lắm. Sau giải phóng khi về lập nghiệp ở Dakmil thầy ấy vẫn còn chiếc xe hơi Mini Austin của Anh quốc và nhiều máy móc vật dụng đắt giá trong nhà. Có một lần thầy ấy cho anh mượn cái máy xay thịt bằng tay, anh mang về nhà bỏ khoai sắn (củ mì) vô xay ra thành sợi. Điều tội nghiệp là vợ của thầy chết sớm lắm, hình như khi vừa sinh đứa con trai đầu lòng, hay sau đó vài tháng gì đó. Khi anh còn đi lại với thầy Bính thì không gặp người cháu tên Tân, mà chỉ gặp con trai của thầy tên là Long. Sau khi anh đi khỏi Xã đoài vài năm thì thầy ấy cũng đưa con đi nơi khác, không biết đi đâu. Trái đất tròn ! Vì vào năm 1993, anh đang chuẩn bị qua Pháp đám cưới thì gặp thầy Bính tại Montreal, và cả Long người con trai của thầy nữa. Nhưng sau lần đó lại mất liên lạc với nhau vì đổi nhà dời nhà. Anh tiếc lắm ! Trái đất lại tròn một lần nữa vì nhân dịp đám tang của một cha dòng Tên vào tháng 2 năm 2010, anh và anh Thạch lại tình cờ gặp được thầy Bính cùng với Long, người con trai duy nhất. Thầy Bính là một người tốt, nên không lạ gì mà em đã được đối xử tốt như thế !)
Nhưng ấn tượng nhất là mệnh lệnh: “Tân! Làm việc!”. Có lần đang chơi trước sân nhà, nghe mệnh lệnh xong em mới hỏi thằng Tân là làm việc gì, nó nói là hết giờ chơi rồi, giờ phải học rồi phải làm việc này làm việc kia, mọi thứ đã được sắp lịch rồi, hễ nghe nhắc làm việc là Tân tự biết phải làm gì. Bài học cho mình lúc đó là: khi nghe mệnh lệnh của Tân thì Giang phải cuốn gói đi về nhà. Bây giờ các cháu Vệ, Mục, Tinh, Loan Giao, Quỳnh Giao, Tường Thụy, Bờm có nhận được sách vở đủ loại từ cậu/chú/bác Giang thì đều xuất phát từ cách giáo dục của ông thầy đó hết.
"Con Quàng"
Trong mấy chị em gái chắc bé là người nghịch ngợm và ham chơi giống con trai nhất, suốt ngày cứ chạy nhong nhong ngoài đường, chơi thì trò gì cũng biết nhưng làm việc thì không biết gì cả, cũng may mà có mấy chị ở gần nên kể ra mình không phải gánh vác nhiều công việc. (Sơn: mới gần đây mẹ kể rằng khi có mang bé Quang, mẹ tưởng sẽ sinh ra con trai chớ không phải là con gái, vì khi còn ở trong bụng mẹ, Quang hung hăng đạp phá và trở mình mạnh mẽ lắm).
Hồi nhỏ bé còn nhớ mẹ gọi bé là “con Quàng” vì tính hay loàng quàng không để ý và cũng không làm được chuyện gì cả. Có lần đi làm rẫy với mẹ, đến gần trưa mẹ nói bé về trước luộc bắp để trưa gia đình ăn thay cơm. Bé lon ton chạy về đến nhà gặp Giang rủ chơi cờ tướng thế là chơi, cứ chơi ráng một ván rồi thêm một ván,… thêm một ván mãi cho đến khi nghe tiếng mẹ và mấy chị về từ ngoài xa thì hoảng hồn chạy ra vườn bẻ bắp, nhưng dù có nhanh tay đến mấy cũng đã muộn rồi, cuối cùng việc luộc bắp cũng phải đến tay mẹ làm. Bây giờ ngồi nghĩ lại thấy thương mẹ quá chừng mà đặc biệt là mẹ không hề la mắng bé kể cả lời trách móc nhẹ. Chính vì mẹ ít la mắng nên mỗi khi làm mẹ không bằng lòng mà chỉ cần nghe mẹ nói “ Mình không dạy làm như rứa khi mô cả, mà răng lại cứ làm” là bé cảm thấy có lỗi và ân hận vô cùng. Bé là người có tính vô tư nên mỗi khi có lỗi thì thường nhớ đến cảm giác ân hận là nhiều, còn những hình phạt hay những lời trách móc lúc đó bé dễ dàng nhận lãnh nên không ấn tượng gì nhiều.
Hồi nhỏ bé còn nhớ mẹ gọi bé là “con Quàng” vì tính hay loàng quàng không để ý và cũng không làm được chuyện gì cả. Có lần đi làm rẫy với mẹ, đến gần trưa mẹ nói bé về trước luộc bắp để trưa gia đình ăn thay cơm. Bé lon ton chạy về đến nhà gặp Giang rủ chơi cờ tướng thế là chơi, cứ chơi ráng một ván rồi thêm một ván,… thêm một ván mãi cho đến khi nghe tiếng mẹ và mấy chị về từ ngoài xa thì hoảng hồn chạy ra vườn bẻ bắp, nhưng dù có nhanh tay đến mấy cũng đã muộn rồi, cuối cùng việc luộc bắp cũng phải đến tay mẹ làm. Bây giờ ngồi nghĩ lại thấy thương mẹ quá chừng mà đặc biệt là mẹ không hề la mắng bé kể cả lời trách móc nhẹ. Chính vì mẹ ít la mắng nên mỗi khi làm mẹ không bằng lòng mà chỉ cần nghe mẹ nói “ Mình không dạy làm như rứa khi mô cả, mà răng lại cứ làm” là bé cảm thấy có lỗi và ân hận vô cùng. Bé là người có tính vô tư nên mỗi khi có lỗi thì thường nhớ đến cảm giác ân hận là nhiều, còn những hình phạt hay những lời trách móc lúc đó bé dễ dàng nhận lãnh nên không ấn tượng gì nhiều.
Về anh Nguyên
Anh Nguyên hồi nhỏ đã biểu hiện là một người nghịch ngợm và có tài, thời đó không có xe điện tử để chơi, không có game như bây giờ, các trò chơi là do mình tự tạo ra hết, nhớ hồi đó anh Nguyên học ai mà chế ra xe, tuy xe không chạy được nhưng nhờ vào địa hình dốc nên thả cho xe chạy, từ đâu ra mà anh Nguyên có mấy cặp bánh xe, sau đó anh Nguyên tìm một tấm ván làm thân xe để ngồi, rồi khoét một lỗ nhỏ phía trước làm tay lái, dùng sợi dây cao su cột bánh xe với tay lái để lái, đại loại là thành một cái xe tự chế mình có thể ngồi lên đó để cho nó chạy và cua qua cua lại được. Ngoài ra anh Nguyên còn làm những con diều bằng giấy to và đẹp thả thật cao, còn chế thêm kiểu gửi thư nữa, những chuyện này chắc anh Nguyên phải bổ sung thêm mới đầy đủ được. Nhớ có lần khi nhà mình đang ở BMT, anh Nguyên kêu bé xuống đứng ở cánh cửa dưới bếp và quay lưng lại anh Nguyên, “nhớ đứng im đừng quay lại để anh làm cái này hay lắm!” Vừa nói xong bé thấy nóng nóng sau lưng mình, không thể chờ đợi thêm được nữa bé lập tức quay lại thì ra anh Nguyên đang “câu cá!” mà câu từ xa lên người bé, thật là quỷ quái!!!...
(Sơn: khi anh ở nhà thì Nguyên mới là một chú bé 11 tuổi, vừa chớm lớn lên, chưa phát hiện cá tính rõ rệt. Anh chỉ nhớ đôi lần anh với Nguyên đi làm rẫy chung trên miếng đất sau nghĩa địa, có cả Trinh nữa, anh thường kể chuyện về học hành, về những nơi đã đi qua và anh để ý thái độ lắng nghe chăm chú và có vẻ thích thú của Nguyên. Vào một buổi trưa nào đó trên rẫy, anh đã đọc cho 2 em Nguyên và Trinh mấy câu thơ này trong tác phẩm Chinh phụ ngâm: “Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt/Khói cam tuyền mờ mịt thức mây/Chín tầng gươm báu trao tay/Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh…”.
Ngoài ra, nói về Nguyên, anh còn một kỷ niệm khác mà bây giờ mỗi lần nhớ lại anh đều tự mắc cở với chính mình. Một buổi chiều, ngày tháng vô định năm 1978, 2 anh em đang làm cỏ sát bên nghĩa địa. Bỗng có mấy con ong gần đó bay tản ra, bắt đầu sà xuống tấn công 2 anh em. Anh bị cắn 1 phát, hoảng hồn chỉ kịp la lên với Nguyên là “ong, ong Nguyên ơi” rồi chạy bán sống bán chết về thẳng nhà, không dám ngoảnh lại coi Nguyên đang ở đâu. Về đến nhà anh nói với mẹ là ong nhiều quá, con với Nguyên bị tấn công. Mẹ hỏi là “em ở mô rồi ?” Anh nói là “con không biết, Nguyên chạy sau con mà không biết hắn đã về chưa”. Liền sau đó mẹ cắp nón đi ngược trở lại để tìm Nguyên. Mẹ đi một đoạn thì thấy Nguyên đang trốn dưới một cái ao, khi đó ong đã tản đi đâu hết.
Nghĩ lại anh thấy mắc cở vì sự nhát gan, và thật sự xấu hổ vì tính cách ích kỷ của mình, làm anh mà không che chở được cho em, chỉ lo cho sự an ninh của chính mình, thật quá tồi! Mẹ chắc không còn nhớ chuyện này, Nguyên cũng có thể không còn nhớ, nhưng anh thì nhớ như in, vì tính cách không tốt đẹp của nó).
(Sơn: khi anh ở nhà thì Nguyên mới là một chú bé 11 tuổi, vừa chớm lớn lên, chưa phát hiện cá tính rõ rệt. Anh chỉ nhớ đôi lần anh với Nguyên đi làm rẫy chung trên miếng đất sau nghĩa địa, có cả Trinh nữa, anh thường kể chuyện về học hành, về những nơi đã đi qua và anh để ý thái độ lắng nghe chăm chú và có vẻ thích thú của Nguyên. Vào một buổi trưa nào đó trên rẫy, anh đã đọc cho 2 em Nguyên và Trinh mấy câu thơ này trong tác phẩm Chinh phụ ngâm: “Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt/Khói cam tuyền mờ mịt thức mây/Chín tầng gươm báu trao tay/Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh…”.
Ngoài ra, nói về Nguyên, anh còn một kỷ niệm khác mà bây giờ mỗi lần nhớ lại anh đều tự mắc cở với chính mình. Một buổi chiều, ngày tháng vô định năm 1978, 2 anh em đang làm cỏ sát bên nghĩa địa. Bỗng có mấy con ong gần đó bay tản ra, bắt đầu sà xuống tấn công 2 anh em. Anh bị cắn 1 phát, hoảng hồn chỉ kịp la lên với Nguyên là “ong, ong Nguyên ơi” rồi chạy bán sống bán chết về thẳng nhà, không dám ngoảnh lại coi Nguyên đang ở đâu. Về đến nhà anh nói với mẹ là ong nhiều quá, con với Nguyên bị tấn công. Mẹ hỏi là “em ở mô rồi ?” Anh nói là “con không biết, Nguyên chạy sau con mà không biết hắn đã về chưa”. Liền sau đó mẹ cắp nón đi ngược trở lại để tìm Nguyên. Mẹ đi một đoạn thì thấy Nguyên đang trốn dưới một cái ao, khi đó ong đã tản đi đâu hết.
Nghĩ lại anh thấy mắc cở vì sự nhát gan, và thật sự xấu hổ vì tính cách ích kỷ của mình, làm anh mà không che chở được cho em, chỉ lo cho sự an ninh của chính mình, thật quá tồi! Mẹ chắc không còn nhớ chuyện này, Nguyên cũng có thể không còn nhớ, nhưng anh thì nhớ như in, vì tính cách không tốt đẹp của nó).
Đi bắt dế
Vào một bữa trưa nọ, theo thường tình thì phải ngủ trưa, nhưng hôm đó vì mê bắt dế quá liền xách ca nước đi theo anh Nguyên để bắt dế vào giữa buổi trưa nắng chang chang. Việc bắt dế thật thú vị: anh Nguyên đào đất ngay hang dế còn bé thì đổ nước vào hang, dế gặp động, nhảy ra thì mình chụp, cứ như thế mà quên cả thời gian. Khi về đến nhà bị anh Sơn phát hiện, sẵn cái cần câu sớ rớ đâu đó anh Sơn đánh cho cả hai anh em, lần đó vì đánh đau quá nên bé vừa sợ mà cũng hơi tức vì cho rằng tội không đáng để đánh đau đến như vậy. Hồi đó nhà mình hay hái lá cây mọc ở nghĩa địa (gọi là lá chay)về ăn , cứ vào những ngày ăn chay thì bé cũng đi hái về ăn. Một hôm như thường lệ đến ngày ăn chay, anh Sơn đi lên nghĩa địa để hái lá chay về ăn, bé lẹt tẹt xin đi theo và anh Sơn đồng ý. Hai anh em cùng đi nhưng anh Sơn thì sải từng bước dài còn bé thì bị anh Sơn nắm ngay sau cổ mà đẩy đi, bé cố gắng hết sức để cố chạy cho kịp với anh Sơn. Khi chạy theo như vậy bé bị mỏi chân quá trời nhưng không dám nói gì cả vì rất sợ (anh Sơn lúc đó không hề nâng niu chở che cho mấy em nhỏ mà ngược lại còn khắt khe nữa là khác!). Cũng một lần tương tự, anh Sơn, bé, Giang và Vũ đi lên rẫy ở nghĩa địa, Vũ lúc đó còn nhỏ và thích trèo cây, anh Sơn đồng ý cho trèo nhưng khi mỏi tay sắp té xuống thì anh Sơn cứ để cho té, anh Sơn đứng ngay đó nhưng không đỡ và còn nói thêm, thích trèo thì cho trèo, té đau thì phải chịu và lần sau tự nhiên sẽ không dám trèo nữa. Anh Sơn hồi còn trai trẻ rất nguyên tắc và nghiêm khắc với em út. Lúc đó bé cảm thấy sợ anh Sơn hơn sợ cha, nhưng vậy mà cũng cứ thích chạy theo chơi với anh Sơn hoài, mỗi khi mà được anh Sơn cùng chơi là mừng vô kể. Có lần chơi năm mười bé rượt anh Sơn chạy bang bang qua những vồng khoai ra tới ngoài nhà ông Đào mà không chịu cứng…
(Sơn: anh là một đứa trẻ hiếu động và chậm trưởng thành, đọc lại những chuyện anh nghịch phá lúc nhỏ thì đủ biết. Vì chậm lớn cho nên vào tuổi 20 -25 anh như trái cây còn xanh, tính khí con người anh lúc đó rất chua và chát. Những khắt khe, đòi hỏi, đánh đập, la mắng các em chính là khía cạnh chua chát của cá tính anh mà các em phải chịu đựng. Anh thành thật xin lỗi Quang, xin lỗi các em Trinh – Nguyên - Thủy – Giang - Vũ về những đòi hỏi phi lý, về những khắt khe vô cớ mà anh đã bắt các em gánh chịu, đã làm nhỏ những giọt lệ ngọc lên trang đời tuổi thơ của các em. Anh Thạch, chị Vân, anh Phong thì ít chịu đựng cá tính đáng ghét của anh vì 3 anh chị này lớn hơn, gần gũi với anh hơn và có những trao đổi chia sẻ với nhau nên anh đối xử có phần nào trân trọng hơn. Còn từ Trinh, Nguyên trở xuống thì không có hay có rất ít sự thân thiện quý mến. Cho đến năm anh gần 30 tuổi, cá tính anh mới bắt đầu chuyển biến, anh mới nhận thấy những quá quắt của mình, và anh mới ý thức một cách trọn vẹn những cư xử lúc xưa của mình đối với các em là một sai lầm lớn lao. Tiến trình trưởng thành đòi có thời gian, và nhất là phải có điều kiện thuận tiện. Những năm sống xa gia đình xa quê hương là hoàn cảnh thuận tiện để anh nghiền ngẫm nhiều điều và để kiểm điểm chính mình. Những lời nhắc nhủ của cha mẹ khi xưa, những nhớ thương ray rứt hướng về gia đình đã làm cho trái cây xanh là anh dần dần chín. Tạ ơn Chúa !)
(Sơn: anh là một đứa trẻ hiếu động và chậm trưởng thành, đọc lại những chuyện anh nghịch phá lúc nhỏ thì đủ biết. Vì chậm lớn cho nên vào tuổi 20 -25 anh như trái cây còn xanh, tính khí con người anh lúc đó rất chua và chát. Những khắt khe, đòi hỏi, đánh đập, la mắng các em chính là khía cạnh chua chát của cá tính anh mà các em phải chịu đựng. Anh thành thật xin lỗi Quang, xin lỗi các em Trinh – Nguyên - Thủy – Giang - Vũ về những đòi hỏi phi lý, về những khắt khe vô cớ mà anh đã bắt các em gánh chịu, đã làm nhỏ những giọt lệ ngọc lên trang đời tuổi thơ của các em. Anh Thạch, chị Vân, anh Phong thì ít chịu đựng cá tính đáng ghét của anh vì 3 anh chị này lớn hơn, gần gũi với anh hơn và có những trao đổi chia sẻ với nhau nên anh đối xử có phần nào trân trọng hơn. Còn từ Trinh, Nguyên trở xuống thì không có hay có rất ít sự thân thiện quý mến. Cho đến năm anh gần 30 tuổi, cá tính anh mới bắt đầu chuyển biến, anh mới nhận thấy những quá quắt của mình, và anh mới ý thức một cách trọn vẹn những cư xử lúc xưa của mình đối với các em là một sai lầm lớn lao. Tiến trình trưởng thành đòi có thời gian, và nhất là phải có điều kiện thuận tiện. Những năm sống xa gia đình xa quê hương là hoàn cảnh thuận tiện để anh nghiền ngẫm nhiều điều và để kiểm điểm chính mình. Những lời nhắc nhủ của cha mẹ khi xưa, những nhớ thương ray rứt hướng về gia đình đã làm cho trái cây xanh là anh dần dần chín. Tạ ơn Chúa !)
"Khi xưa yêu tiếng mõ trâu"
Ở Dakmil có một thời gian anh Sơn về ở nhà, lúc đó anh Sơn rất nghiêm khắc và khó tính, lại nóng nảy hay đánh nữa nên thường làm cho bé sợ khiếp vía, anh Sơn cứ trợn mắt thôi là mấy đứa nhỏ sau sợ chết khiếp. Anh Sơn nói gì là phải làm theo răm rắp vì sợ làm sai sẽ bị phạt (lúc đó là bị đánh đòn). Bé nhớ hồi đó nhà mình có một con mèo, mỗi lần đến bữa ăn là nó nhảy lên ghế ăn chực, nhưng anh Sơn không chấp nhận như vậy nên cứ thấy mèo nhảy lên ghế là đánh, con mèo cũng nhận ra được tính cương quyết cuả anh Sơn nên cứ thấy bóng dáng anh Sơn là chạy mất tiêu. Anh Sơn hồi đó khác bây giờ rất nhiều, chị Thủy, bé và Giang hay lêu nghêu những bài hát mà anh Sơn hay hát (chắc là những bài tình ca), anh Sơn thấy vậy thì cấm bé và Giang không được hát theo nhưng chị Thủy thì lại được, điều đó làm bé thắc mắc tại sao nhưng không bao giờ dám nói ra, cho đến bây giờ có cơ hội mình mới nói ra. (Sơn: anh xin lỗi Quang đã cấm em hát khi em còn nhỏ, làm em mất một niềm vui. Thật ra không có lý do gì cả, thích cấm thì cấm thôi. Anh lúc đó rất độc tài. Mà bây giờ em nhắc lại thì anh biết, nhưng anh không hề nhớ, và lại càng không thể tưởng tượng được mình đã đòi hỏi những điều vô lý như vậy). Có lần anh Sơn tập cho bài “Khi xưa yêu tiếng mõ trâu….” và chỉ cho hát những bài như vậy thôi còn ngoài ra là không được hát theo. Vào những năm đó cứ đến mùa thu hoạch ngô về đổ đầy nhà, bóc vỏ rồi sau đó khãy từ từ, thường thì đổ lên giường, giăng mùng rồi lấy liềm và dao đập, ngoài ra còn khãy cả bằng tay nữa. Cha cứ lấy dao dùi trước một hàng rồi để đó từ từ ai rảnh thì khãy, mỗi khi rảnh là tập trung lại ngồi khãy ngô thi, nói đùa và thi nhau kể đủ thứ chuyện cho nhau nghe, vui thật là vui, bây giờ khó mà kiếm lại được những giây phút như vậy…!
Anh Thạch chuẩn bị đi vượt biên
Hồi đó bé không biết rõ kế hoạch đi vượt biên của anh Thạch nhưng thoáng ở đâu đó mình biết anh Thạch chuẩn bị đi cùng với gia đình ông Phước (anh em với ông Phúc). Một buổi sáng mẹ nói em lên bà Phong mượn cho mẹ tiền, không nhớ là mượn bao nhiêu tiền, nhưng cuối cùng cũng mượn được và số tiền đó sau này mới biết là mượn để đưa cho anh Thạch đi đường. Nhớ hồi đó mỗi lần mẹ có việc gì cần tiền mà nhà không có thì thường hay đi mượn bà Phong, mà bé chắc là thích chạy cho nên mẹ thường sai đi mượn tiền. Sau đó một thời gian lâu thật lâu thấy anh Thạch gửi thư về kể lại chuyến đi, thư kể chi tiết dài lắm nhưng không nhớ là mấy trang. Trên đoạn đường đi tàu anh Thạch bị cướp, sau đó may mà đi được đến nơi nào đó theo trí nhớ của bé là “Đốm sáng dàn khoan dầu” được người ta cho tàu khác và đi đến đảo, theo anh Thạch tả thì mình như “mọi rợ”.
Vũ té ở chuồng bò
Lúc bé còn nhỏ, anh Thạch ở Dakmil nhiều nhất nhưng không hay ở nhà, hình như là đi Nông trường, nhưng bé cũng có mấy kỷ niệm với anh Thạch sâu đậm. Một ngày nọ có anh Thạch ở nhà mình cảm thấy rất vui vì hôm nay nhà mình lại có thêm anh Thạch. Sáng sớm anh Thạch đi làm, ở nhà chỉ còn bé, Giang và Vũ, biết trưa anh Thạch sẽ về nên bé nổi hứng đi theo Sự con bà Phúc đi hái ổi, khi hái được ổi chín định bụng sẽ chọn trái ngon nhất về cho anh Thạch, nhưng khi về đến nhà chạy vào nhà tìm anh Thạch thấy anh Thạch ngồi trong buồng, không biết đã đưa được ổi cho anh Thạch chưa không nhớ nhưng chỉ nhớ là ngay lập tức bị anh Thạch bợp tai một cái đau điếng và nói gì không nhớ nguyên văn nhưng đại loại là “ở nhà coi em mà để em như vậy đó hả?”. Sau đó mới biết được trong lúc đi chơi, ở nhà Vũ bị té gần chuồng bò, mặt của Vũ bị rách trán sâu, phải băng nhiều ngày, còn mấy trái ổi ai ăn và có ăn hay không thì bé không còn nhớ gì nữa cả.
Dù là bị anh Thạch đánh nhưng bé vẫn nhớ về anh Thạch là một người hiền lành và luôn nhẹ nhàng; anh Thạch không nói nhiều cũng không hay dọa nạt mấy em nhỏ, bé cảm giác anh Thạch thương mình và mỗi khi có anh Thạch ở nhà bé không thấy sợ hãi gì.
(Thạch : Vũ té ở chuồng bò, bị đập đầu vào cái đinh, ngay giữa trán. Vết thương này bị làm độc nên vài ngày sau thì trán của Vũ nổi u lên một cục như cái sừng. Mẹ phải bế Vũ vào ông Đề để giải phẫu chùi rửa vết thương, Vũ vẫn cười chơi như thường chứ không lè nhè, than van gì cả)
Dù là bị anh Thạch đánh nhưng bé vẫn nhớ về anh Thạch là một người hiền lành và luôn nhẹ nhàng; anh Thạch không nói nhiều cũng không hay dọa nạt mấy em nhỏ, bé cảm giác anh Thạch thương mình và mỗi khi có anh Thạch ở nhà bé không thấy sợ hãi gì.
(Thạch : Vũ té ở chuồng bò, bị đập đầu vào cái đinh, ngay giữa trán. Vết thương này bị làm độc nên vài ngày sau thì trán của Vũ nổi u lên một cục như cái sừng. Mẹ phải bế Vũ vào ông Đề để giải phẫu chùi rửa vết thương, Vũ vẫn cười chơi như thường chứ không lè nhè, than van gì cả)
Kỷ niệm Đakmil
Hồi ở Dakmil, Thủy Quang Giang là gần với nhau, anh Nguyên thì hơi quá lớn còn Vũ thì hơi quá nhỏ. Lúc đó mẹ thường đi làm còn cha hay ở nhà hơn, Giang là đứa ngoan hiền (theo nhận xét của cha) nên cha hay quan tâm và dạy học cho Giang nhiều hơn, nhớ cha dùng mặt sau cái gac-mang-re làm bảng dạy học, cha dạy Giang làm toán, những khi Giang làm sai hay chưa hiểu bài thì cha thường hay cú lên đầu Giang, bé hay để ý mổi khi nghe cha nói lớn tiếng với Giang và cú đầu Giang, lúc đó mặt Giang cứ ngơ ra và hình như càng không hiểu thêm được gì, ánh mắt ngơ ngơ của Giang vì sợ cứ theo bám bé hoài và những lúc đó bé thấy tội nghiệp Giang quá chừng.
Thời đó cuộc sống thiếu thốn tẻ nhạt, chủ yếu chạy nhảy chơi lang thang ngoài đường với những trò chơi tạt lon, khẳng, năm mười … Mỗi khi nghe tin mấy anh chị ở xa về là mừng hết lớn, đầu tiên là nghĩ sắp có quà bánh, rồi có người chơi với mình. Có lần 3 anh về chung một lần, tối lại chơi năm mười, lấy cây đu đủ làm cột, sau khi năm mười xong mấy anh trùm áo lên đầu chạy ra, thấy chân lo không nhận được anh nào để mà bắt thế là mấy anh không bao giờ bị thua. Một lần khác không biết đó là dịp nào, (Sơn: Có lẽ đây là dịp Tết năm 1980, anh Sơn với anh Thạch từ Bến Lội về, ghé ngang Phan Rang đón anh Phong, rồi cả 3 anh em về nhà ăn Tết. Đây là cái Tết cuối cùng của anh với gia đình, vì sau đó vài tháng thì anh vượt biên), có cả anh Sơn và anh Thạch ở nhà, hai anh lấy bắp rang hay bắp nướng tách hột, hai anh ngồi ở giường nhỏ còn mấy đứa Thủy Quang Giang Vũ ngồi ở giường lớn đối diện, hai anh dồi bắp qua đứa nào hứng trúng thì được ăn, sau một hồi anh Thạch nghĩ ra cách lấy một cái ống như cái sáo bỏ hạt bắp vào và thổi qua, ai hứng được thì ăn, những việc như vậy mà đến bây giờ em vẫn nhớ hoài.
Thời đó cuộc sống thiếu thốn tẻ nhạt, chủ yếu chạy nhảy chơi lang thang ngoài đường với những trò chơi tạt lon, khẳng, năm mười … Mỗi khi nghe tin mấy anh chị ở xa về là mừng hết lớn, đầu tiên là nghĩ sắp có quà bánh, rồi có người chơi với mình. Có lần 3 anh về chung một lần, tối lại chơi năm mười, lấy cây đu đủ làm cột, sau khi năm mười xong mấy anh trùm áo lên đầu chạy ra, thấy chân lo không nhận được anh nào để mà bắt thế là mấy anh không bao giờ bị thua. Một lần khác không biết đó là dịp nào, (Sơn: Có lẽ đây là dịp Tết năm 1980, anh Sơn với anh Thạch từ Bến Lội về, ghé ngang Phan Rang đón anh Phong, rồi cả 3 anh em về nhà ăn Tết. Đây là cái Tết cuối cùng của anh với gia đình, vì sau đó vài tháng thì anh vượt biên), có cả anh Sơn và anh Thạch ở nhà, hai anh lấy bắp rang hay bắp nướng tách hột, hai anh ngồi ở giường nhỏ còn mấy đứa Thủy Quang Giang Vũ ngồi ở giường lớn đối diện, hai anh dồi bắp qua đứa nào hứng trúng thì được ăn, sau một hồi anh Thạch nghĩ ra cách lấy một cái ống như cái sáo bỏ hạt bắp vào và thổi qua, ai hứng được thì ăn, những việc như vậy mà đến bây giờ em vẫn nhớ hoài.
Bóng mẹ
Hình ảnh mẹ trong trí nhớ bé thật khó tả, từ sáng sớm mở mắt ra là đã không thấy mẹ nữa rồi, mẹ đi chợ từ sáng sớm. Có thời gian mẹ đi buôn café từ Đakmil lên BMT tới trưa mới về, sau này đi buôn café không có ăn nữa thì mẹ chuyển qua trồng rau và đem ra chợ bán. Ngày thường mẹ dậy khi mình còn ngủ để đi ra rẫy hái rau đi chợ bán, thường thì nửa buổi là mẹ về, mua đồ ăn cho cả ngày. Khi thì mẹ trồng rau muống, khi thì mẹ trồng rau cải, khi thì trồng rau Diếp salad và thêm cả hành ngò nữa. Vào mùa tết mẹ thường trồng rau Diếp và rau Cải (loại để muối chua) để bán tết, nhiều lần vì nhiều quá mẹ kêu bé đi theo cùng mẹ để trông coi bán phụ mẹ, vì tính nhút nhát nên bé thấy mắc cở quá trời nên cứ bối rối không biết phải làm gì. Khi bớt đông và thấy không cần thiết nữa thì mẹ cho về, vì đi với mẹ nên biết được công việc của mẹ cho nên khi trên đường về cứ nhớ mẹ và thương mẹ quá chừng nhưng chẳng biết làm sao. Hồi đó nhà có con chó tên Noa thì phải, là người hộ tống trung thành nhất của mẹ, cứ sáng sớm mẹ đi là Noa đi cùng mẹ vào rẫy chờ mẹ hái rau xong Noa cùng mẹ đi chợ, nhưng vì không dám ra đến chợ vì sợ lạc và bị chó khác cắn nên cứ đến đập Tây là Noa chui vô bụi nằm đó nghỉ chờ mãi cho đến khi mẹ bán hết rau gánh gánh quay trở về thì Noa lại ra đón mẹ và về cùng mẹ.
(Sơn: nếu anh không lầm thì hình như vào năm 1995 khi các anh về thăm nhà lần đầu tiên từ khi ra đi, thì con chó Noa cũng có mặt ở nhà. Vì đã làm bạn với mẹ đi chợ bán rau hàng ngày nên nó đáng được mình tưởng nhớ công ơn).
…. Lúc nào nghĩ về mẹ mình cũng thấy hãnh diện, mẹ hơn hẳn nhiều người mẹ khác, mẹ nhân hậu, mẹ đảm đang, mẹ hiền hòa, mẹ yêu thương, mẹ hy sinh,…mẹ là tất cả.
(Sơn: anh hoàn toàn đồng ý với em Quang ạ ! Mẹ hơn nhiều người mẹ khác, và anh cũng có thể nói như thế về cha. Cha mẹ mình là những bậc cha mẹ lý tưởng về nhiều phương diện. Sự quan tâm săn sóc và theo dõi sát con cái, bằng thư từ thăm hỏi, nhất là trong trường hợp của anh, đã làm những đứa bạn học ở TCV với anh ganh tị và thèm khát vô cùng).
(Sơn: nếu anh không lầm thì hình như vào năm 1995 khi các anh về thăm nhà lần đầu tiên từ khi ra đi, thì con chó Noa cũng có mặt ở nhà. Vì đã làm bạn với mẹ đi chợ bán rau hàng ngày nên nó đáng được mình tưởng nhớ công ơn).
…. Lúc nào nghĩ về mẹ mình cũng thấy hãnh diện, mẹ hơn hẳn nhiều người mẹ khác, mẹ nhân hậu, mẹ đảm đang, mẹ hiền hòa, mẹ yêu thương, mẹ hy sinh,…mẹ là tất cả.
(Sơn: anh hoàn toàn đồng ý với em Quang ạ ! Mẹ hơn nhiều người mẹ khác, và anh cũng có thể nói như thế về cha. Cha mẹ mình là những bậc cha mẹ lý tưởng về nhiều phương diện. Sự quan tâm săn sóc và theo dõi sát con cái, bằng thư từ thăm hỏi, nhất là trong trường hợp của anh, đã làm những đứa bạn học ở TCV với anh ganh tị và thèm khát vô cùng).
Lời khuyên
Khi bắt đầu lớn thì cứ một buổi đi học còn một buổi đi làm, thường thì đi làm với mẹ nhưng có đôi khi đi làm với cha. Bé có tính hay nói hay kể chuyện, bất cứ chuyện gì trong ngày đi học mà xảy ra là về cứ bi bô kể hết cho cha mẹ nghe. Có một buổi chiều nọ khi đang đi làm với cha ở bên đồng Mỹ Yên, trên đường đi kể chuyện gì mà mình đang bực tức từ buổi sáng đi học thì cha mới nói với mình câu nói “nói đau như chọc ruột, tai làm điếc”, từ đó cho tới bây giờ cứ mỗi lần gặp hoàn cảnh tương tự thì mình lại nhớ lại câu nói mà cha đã khuyên mình năm xưa để rũ bỏ tất cả tức tối và mang lại cho mình cảm giác bình an nhẹ nhõm.
Sau những giấc ngủ trưa
Nhớ lại thời còn nhỏ, bé không sao quên được cảm giác mệt mỏi sau một giấc ngủ trưa. Nhà mình cứ như theo thường lệ ăn cơm trưa xong là tất cả phải đi ngủ trưa, các anh chị khác thấy như thế nào sau những giấc ngủ trưa? (Sơn: Về chuyện ngủ trưa, các anh chị lớn cũng không khác thế hệ của Quang sau này đâu. Anh không quên được những vất vả khổ sở để ép mình nằm ngủ trưa. Đã bao nhiêu lần, cứ đến giờ ngủ, cha vừa nằm xuống là ngáy o o liền, còn mấy anh em thì bắt đầu chọc nhau nghịch ngợm, cười khúc khích hay là rón rén dậy ra ngoài chơi. Giấc ngủ trưa của người lớn không giống với giấc ngủ của con nít. Con nít đã ngủ thì nó phải ngủ vài tiếng đồng hồ tới khi chán mới dậy, trong khi cha cũng như các người lớn khác, họ chỉ chợp mắt chừng vài chục phút thôi là đã xong giấc ngủ trưa rồi. Vì thế không lạ gì mà khi bé bị cha kêu dậy thì chưa thể tỉnh táo ngay được và cảm thấy mệt mỏi lờ đờ). Còn bé nhớ cứ đang ngủ ngon thì cha kêu dậy, vừa lóp ngóp bò dậy, người đang nửa tỉnh nửa mơ thì cha đã đưa ngay cho một quyển sách để đọc cho cha nghe trong lúc đang làm một việc gì đó (chẻ lạt, đan tranh,…), nhớ là quyển sách dày và lớn hơn ½ quyển vở, sách nói về vấn đề gì bé cũng không nhớ, chỉ còn lại cảm giác mệt mỏi khó chịu đến bực bội. Có lần bé tức quá nên nhân cơ hội cha đứng dậy bước ra ngoài làm gì đó thì bé đã tranh thủ đạp chân thình thịch xuống nhà cho hả bực tức nhưng bất thình lình cha lại quay lại ngay, nhưng cũng may cha không nói gì đến những cái đạp chân của bé cả mà chỉ nhắc đọc đi thôi, cha là như vậy, biết hết những phản ứng của mình nhưng cứ làm ngơ như là không biết vậy.
Cha đi học-tập-cải-tạo
Thời gian cha đi cải tạo thỉnh thoảng cha viết thư về thăm nhà, thư viết khá dài nhưng điểm mà bé nhớ nhất là cha dặn mấy chị em “trước khi ăn cơm phải uống một miếng nước”, lời dặn đó của cha bé còn nhớ mãi mỗi khi ăn cơm. (Chị Trinh : Câu nói “Trước khi ăn cơm phải uống một miếng nước” là câu nói của anh Phong, vì hồi nhỏ mỗi lần mẹ kêu vào ăn cơm cứ ngồi vào bàn rồi thì mới thấy khát nước vì trước đó cứ mải chơi đùa nên không để ý và lần lượt đứa nào cũng đi uống nước cả nên anh Phong mới nói ra câu đó. Còn câu cha dặn khi cha đi cải tạo là “khi ăn nhớ nhai cho kỹ”, chắc bé nhớ nhầm rồi)
Hồi nhỏ cha thường chỉ bảo nhiều hơn mẹ, cha chỉ cho từng cách ăn, cách nói năng và cả những phép lịch sự. Có lần cha nói “người lịch sự là đi vào nhà người khác phải bỏ dép ở ngoài, ngược lại khi người khác vào nhà mình thì mình phải đi dép”, câu nói đó lúc đó bé nghe thấy vô lý nhưng mãi sau một thời gian thật lâu mới hiểu ra được ý nghĩa của câu nói.
Hồi nhỏ cha thường chỉ bảo nhiều hơn mẹ, cha chỉ cho từng cách ăn, cách nói năng và cả những phép lịch sự. Có lần cha nói “người lịch sự là đi vào nhà người khác phải bỏ dép ở ngoài, ngược lại khi người khác vào nhà mình thì mình phải đi dép”, câu nói đó lúc đó bé nghe thấy vô lý nhưng mãi sau một thời gian thật lâu mới hiểu ra được ý nghĩa của câu nói.
Sách học vần
Không biết cha mua sách học vần và dạy cho bé học từ lúc nào thì không nhớ, nhưng chỉ khi cha xé rách đôi quyển sách học vần và nói đại loại là lười học thì thôi xé sách cho rồi chứ để làm chi, lúc đó bé mới hoảng hồn, cảm giác lo sợ và nhận biết có lỗi thật nhiều, nhìn mặt cha giận mà sợ mình sẽ không được học nữa, cũng may mà có chị Trinh để cầu cứu. Chị Trinh thấy tội nghiệp đã chỉ cách để dành tiền (không biết từ đâu mà có) mua quyển sách khác về chị Trinh sẽ dạy cho học. Rồi sau đó cũng quên luôn là có mua sách hay không và có học hay không cũng không còn nhớ gì nữa. Nhưng chỉ biết là cả nhà ai cũng được cha dạy học trước ở nhà sau đó đến trường bắt đầu học từ lớp hai trở lên, riêng chỉ có một mình bé là đi học từ lớp một. Lần đầu tiên đi học tại trường ở trên đồi cao gió lạnh, nơi mà bây giờ chị Trinh đang dạy, hồi nhỏ bé nhút nhát nên nghe được đi học thì mừng nhưng lại không dám đi một mình, may ở kế nhà mình có Sự con bà Phúc cũng bằng tuổi hay chơi chung cũng bắt đầu đi học, thế là bé đi theo Sự, khi đến trường tên bé ở lớp khác lớp Sự nhưng vì không dám đi một mình nên chui tọt vào lớp Sự ngồi luôn, sau này cô giáo không thấy có tên trong danh sách mới bổ sung sau.
Cất te - Câu cá
Những năm cuối thập niên 70 qua đầu thập niên 80 chắc là những năm đói khổ nhất cho mọi nhà. Ở Đức-minh không quá đói gạo nhưng ngoài những nông phẩm sản xuất tại chỗ ra thì không còn gì nữa cả.
Qua những lần đổi tiền, đánh tư sản, quốc hữu hóa doanh nghiệp, thành lập hợp tác xã, nhà nhà chỉ còn nước tự lực cánh sinh. Tuy nhà có gạo, có ngô khoai nhưng đồ ăn thì hầu như chẳng có gì; đi làm hợp tác xã chỉ có điểm nên thỉnh thoảng phải bán một con gà hay giết lén một con heo mang thịt đi bán để có chút tiền tiêu dùng (thịt mang đi bán nên người nhà chỉ được hưởng mấy món lòng và tiết canh). Bởi vậy, món ăn thường thấy nhất trong các bữa ăn trong những năm tháng này là món đu-đủ. Nhà mình hồi đó có một cây đu đủ ngay ở cửa sổ trên gác nhìn xuống, cây không tốt lắm nhưng lại rất sai trái, cây càng ngày càng cao cho tới ngang tầm cửa sổ căn gác. Từ cây này sinh ra các món : đu đủ ngâm mắm, canh đu đủ, đu đủ xào, đu đủ luộc,…. (Sơn : dầu chỉ ở nhà có 1 năm, từ mùa hè 1977 đến mùa hè 1978, anh cũng không quên được cây đu đủ bên hông nhà, và những bữa cơm mà đu đủ là món chủ lực, do Trinh xào nấu)
Trứng gà, chứ chưa nói thịt gà, thuộc loại hàng xa xí phẩm, phải cất dành để cho ấp hay đem ra chợ bán hầu có tiền mua ít đường, dầu ăn. Mẹ nuôi heo nái, mỗi lứa thường có một, hai chú heo con còi cọt; vào một ngày đẹp trời nào đó, tự nhiên bữa cơm thấy có thịt và trong chuồng cũng vắng bóng luôn chú heo con còi cọt, cha là người giải quyết rất gọn các trường hợp này. (Sơn : lễ Phục sinh 1978, cha ở nhà làm thịt chó. Đó là con chó của nhà, anh không nhớ nó màu gì, mập ốm ra sao. Chỉ còn nhớ là cha không đi lễ buổi tối mà ở nhà làm thịt chó với mẹ. Lễ về thì thấy đã có nồi rựa mận tổ bố).
Những bữa tiệc này là điều hiếm hoi, lâu lâu mới có. Những người có công cải thiện các bữa cơm hằng ngày trong thời gian này là Nguyên, Thủy và Quang, nhất là Nguyên.
(Chị Tuyết : Chị đi tu xa nhà vậy mà cũng biết tài câu cá đặc biệt của Nguyên đó. Người miền Nam gọi là « sát cá». Không biết nơi người ấy có một mãnh lực thế nào mà cá cứ đâm vào lưỡi câu hoặc tấm lưới của người ấy thôi. Trong các sơ cũng có những người có khả năng đặc biệt như vậy. Còn chị Tuyết thì cá vừa thoáng thấy bóng là đã chạy mất hết rồi. Hoặc có đút mồi tận miệng nó cũng không thèm đớp !
Lần ấy chị Tuyết về thăm nhà, nghe mẹ nói Nguyên câu giỏi lắm. Nhờ có Nguyên mà cả nhà lâu lâu được những bữa cơm với cá tươi ngon tuyệt.
Vậy là với gợi ý của mẹ, hôm ấy Nguyên đi câu, trổ tài để đãi chị Tuyết một bữa. Lâu lâu chị Tuyết mới về nhà một lần mà, tới hai năm lận. Hôm đó Nguyên chuẩn bị đồ nghề rất sớm, từ sáng là đã vác mồi và cần câu ra đập Tây rồi ! Mẹ cũng đi chợ mua sẵn đồ để nấu món cá lóc canh chua hay gì đó …
Chiều đến, chờ mãi mà không thấy bóng dáng Nguyên đâu cả. Mẹ đành phải đổi món ăn thôi. Cuối cùng thì Nguyên cũng về tới. Không biết « tổ trác » hay sao mà mất toi công cả ngày ! Ngồi chờ mãi không thấy tăm hơi chú cá nào bén mảng tới nạp mạng cả nên Nguyên đành lầm lũi trở về với giỏ không !
Thương em quá, hôm ấy phải giầm mưa nữa… ! Có lẽ nhờ ơn « Cách mạng » mới có cơ hội cầm cần câu ! Câu để kiếm sống theo một nghĩa nào đó chứ không phải để giải trí như những người ở đất nước văn minh Âu châu. Họ câu cá không phải để kiếm cá ăn mà để thư giãn nên câu lên rồi lại thả xuống.
Lần ấy thì Nguyên hơi bị « xui» nhưng những lần khác thì cá xui, bị Nguyên chộp. Chị Tuyết cũng ít nhiều được hưởng lộc của Nguyên mỗi khi có dịp về thăm nhà đó chứ. Cám ơn Nguyên với tài câu cá.)
Thủy, Quang thay nhau (và đôi lúc giành nhau nữa!) đi cất te ở đập Tây để kiếm thêm bát tép, thường thì rời nhà lúc giữa chiều và tới sập tối mới về. Nguyên thì mỗi chiều đều vác cần câu đi câu rê trong mấy đám ruộng gần nghĩa địa. Số Nguyên hình như rất sát cá nên hầu như ngày nào cũng kiếm được chút gì, đôi bữa ở nhà nấu cơm sẵn, chờ Nguyên về để có cá làm thức ăn. Nhưng cũng có những ngày Nguyên vác cần câu về nhà mà chẳng có gì cả, những lúc đó Nguyên thường bị ghẹo là bị sẩy con cá lớn lắm làm cho Nguyên tức anh ách. (Quang : Hồi đó em một buổi đi học, buổi chiều về rang thính (cám) làm mồi đi cất tép. Điểm đi thường là đập bà Khoan, hay đi chung với Ngân con ông Nhàn. Cứ đi từ chiều đến tối mới về, hôm nào được thì khoảng nửa oi (đồ đựng tép, cá), hôm nào ít khoảng 1 chén (bát). Nhiều hôm mẹ không muốn cho đi cũng trốn đi, vì đi cất tép được chèo xuồng dưới nước thích hơn là làm những việc khác.)
(Trinh : Quang hồi nhỏ rất ham chơi và không thích làm việc nhà, chị nhớ là khoảng năm 86 trước thời gian chị học cao đẳng, lúc đó Quang học lớp 10, học buổi sáng, buổi chiều nghỉ thế nhưng buổi chiều Quang vẫn hay đi lên trường, lúc thì đi tập văn nghệ, lúc thì chuyện nọ, chuyện kia. Có hôm Quang ở nhà, chị mừng quá vì chiều nay sẽ có người đi làm cỏ lúa với mình cho vui ai ngờ Quang đã hẹn đi làm đổi công cho con Uyển, ngày mai cũng làm cho nó vì làm chưa xong, ngày mốt lại làm cho nhà con Thanh, ngày kia lại làm cho nhà con Ái, thế là hết tuần, cỏ nhà mình cũng đã làm xong và chẳng có đứa bạn nào trả công lại cho Quang cả.)
Qua những lần đổi tiền, đánh tư sản, quốc hữu hóa doanh nghiệp, thành lập hợp tác xã, nhà nhà chỉ còn nước tự lực cánh sinh. Tuy nhà có gạo, có ngô khoai nhưng đồ ăn thì hầu như chẳng có gì; đi làm hợp tác xã chỉ có điểm nên thỉnh thoảng phải bán một con gà hay giết lén một con heo mang thịt đi bán để có chút tiền tiêu dùng (thịt mang đi bán nên người nhà chỉ được hưởng mấy món lòng và tiết canh). Bởi vậy, món ăn thường thấy nhất trong các bữa ăn trong những năm tháng này là món đu-đủ. Nhà mình hồi đó có một cây đu đủ ngay ở cửa sổ trên gác nhìn xuống, cây không tốt lắm nhưng lại rất sai trái, cây càng ngày càng cao cho tới ngang tầm cửa sổ căn gác. Từ cây này sinh ra các món : đu đủ ngâm mắm, canh đu đủ, đu đủ xào, đu đủ luộc,…. (Sơn : dầu chỉ ở nhà có 1 năm, từ mùa hè 1977 đến mùa hè 1978, anh cũng không quên được cây đu đủ bên hông nhà, và những bữa cơm mà đu đủ là món chủ lực, do Trinh xào nấu)
Trứng gà, chứ chưa nói thịt gà, thuộc loại hàng xa xí phẩm, phải cất dành để cho ấp hay đem ra chợ bán hầu có tiền mua ít đường, dầu ăn. Mẹ nuôi heo nái, mỗi lứa thường có một, hai chú heo con còi cọt; vào một ngày đẹp trời nào đó, tự nhiên bữa cơm thấy có thịt và trong chuồng cũng vắng bóng luôn chú heo con còi cọt, cha là người giải quyết rất gọn các trường hợp này. (Sơn : lễ Phục sinh 1978, cha ở nhà làm thịt chó. Đó là con chó của nhà, anh không nhớ nó màu gì, mập ốm ra sao. Chỉ còn nhớ là cha không đi lễ buổi tối mà ở nhà làm thịt chó với mẹ. Lễ về thì thấy đã có nồi rựa mận tổ bố).
Những bữa tiệc này là điều hiếm hoi, lâu lâu mới có. Những người có công cải thiện các bữa cơm hằng ngày trong thời gian này là Nguyên, Thủy và Quang, nhất là Nguyên.
(Chị Tuyết : Chị đi tu xa nhà vậy mà cũng biết tài câu cá đặc biệt của Nguyên đó. Người miền Nam gọi là « sát cá». Không biết nơi người ấy có một mãnh lực thế nào mà cá cứ đâm vào lưỡi câu hoặc tấm lưới của người ấy thôi. Trong các sơ cũng có những người có khả năng đặc biệt như vậy. Còn chị Tuyết thì cá vừa thoáng thấy bóng là đã chạy mất hết rồi. Hoặc có đút mồi tận miệng nó cũng không thèm đớp !
Lần ấy chị Tuyết về thăm nhà, nghe mẹ nói Nguyên câu giỏi lắm. Nhờ có Nguyên mà cả nhà lâu lâu được những bữa cơm với cá tươi ngon tuyệt.
Vậy là với gợi ý của mẹ, hôm ấy Nguyên đi câu, trổ tài để đãi chị Tuyết một bữa. Lâu lâu chị Tuyết mới về nhà một lần mà, tới hai năm lận. Hôm đó Nguyên chuẩn bị đồ nghề rất sớm, từ sáng là đã vác mồi và cần câu ra đập Tây rồi ! Mẹ cũng đi chợ mua sẵn đồ để nấu món cá lóc canh chua hay gì đó …
Chiều đến, chờ mãi mà không thấy bóng dáng Nguyên đâu cả. Mẹ đành phải đổi món ăn thôi. Cuối cùng thì Nguyên cũng về tới. Không biết « tổ trác » hay sao mà mất toi công cả ngày ! Ngồi chờ mãi không thấy tăm hơi chú cá nào bén mảng tới nạp mạng cả nên Nguyên đành lầm lũi trở về với giỏ không !
Thương em quá, hôm ấy phải giầm mưa nữa… ! Có lẽ nhờ ơn « Cách mạng » mới có cơ hội cầm cần câu ! Câu để kiếm sống theo một nghĩa nào đó chứ không phải để giải trí như những người ở đất nước văn minh Âu châu. Họ câu cá không phải để kiếm cá ăn mà để thư giãn nên câu lên rồi lại thả xuống.
Lần ấy thì Nguyên hơi bị « xui» nhưng những lần khác thì cá xui, bị Nguyên chộp. Chị Tuyết cũng ít nhiều được hưởng lộc của Nguyên mỗi khi có dịp về thăm nhà đó chứ. Cám ơn Nguyên với tài câu cá.)
Thủy, Quang thay nhau (và đôi lúc giành nhau nữa!) đi cất te ở đập Tây để kiếm thêm bát tép, thường thì rời nhà lúc giữa chiều và tới sập tối mới về. Nguyên thì mỗi chiều đều vác cần câu đi câu rê trong mấy đám ruộng gần nghĩa địa. Số Nguyên hình như rất sát cá nên hầu như ngày nào cũng kiếm được chút gì, đôi bữa ở nhà nấu cơm sẵn, chờ Nguyên về để có cá làm thức ăn. Nhưng cũng có những ngày Nguyên vác cần câu về nhà mà chẳng có gì cả, những lúc đó Nguyên thường bị ghẹo là bị sẩy con cá lớn lắm làm cho Nguyên tức anh ách. (Quang : Hồi đó em một buổi đi học, buổi chiều về rang thính (cám) làm mồi đi cất tép. Điểm đi thường là đập bà Khoan, hay đi chung với Ngân con ông Nhàn. Cứ đi từ chiều đến tối mới về, hôm nào được thì khoảng nửa oi (đồ đựng tép, cá), hôm nào ít khoảng 1 chén (bát). Nhiều hôm mẹ không muốn cho đi cũng trốn đi, vì đi cất tép được chèo xuồng dưới nước thích hơn là làm những việc khác.)
(Trinh : Quang hồi nhỏ rất ham chơi và không thích làm việc nhà, chị nhớ là khoảng năm 86 trước thời gian chị học cao đẳng, lúc đó Quang học lớp 10, học buổi sáng, buổi chiều nghỉ thế nhưng buổi chiều Quang vẫn hay đi lên trường, lúc thì đi tập văn nghệ, lúc thì chuyện nọ, chuyện kia. Có hôm Quang ở nhà, chị mừng quá vì chiều nay sẽ có người đi làm cỏ lúa với mình cho vui ai ngờ Quang đã hẹn đi làm đổi công cho con Uyển, ngày mai cũng làm cho nó vì làm chưa xong, ngày mốt lại làm cho nhà con Thanh, ngày kia lại làm cho nhà con Ái, thế là hết tuần, cỏ nhà mình cũng đã làm xong và chẳng có đứa bạn nào trả công lại cho Quang cả.)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)