12/5/10

Khám phá Cà Mau

Năm 1980, sau khi anh Sơn ra đi được một thời gian thì thấy cha Báu nhắn về nhà là cần thanh toán tiền một chiếc xe đạp mà anh Sơn đã mượn để ra bãi đáp. Tôi được giao nhiệm vụ đi Phan-thiết, nhân tiện ghé về Bến-lội để gom góp những đồ đạc hai anh em còn để lại ở đó.

Rời Đức-minh đi Bmt và Nha-trang trong ngày, tôi ghé vào TGM Nha-trang thăm mấy đứa bạn còn tu học tại đó, buổi tối nằm ngủ trong cái nhà ngủ thênh thang nay chỉ cho dành cho một tiểu đội. Ngày hôm sau bắt xe đi Phan-rang, hình như cái xe khách nhỏ chạy bằng than vì xăng dầu khá khan hiếm trong giai đoạn này. Ghé thăm và ở lại với Phong vài ngày tại Tháp Chàm, có buổi đi vào vườn hái ổi, có ngày đạp xe đạp cùng với mấy bạn của Phong đi tắm biển và còn có đi rạp xem phim nữa. Đôi lúc nghe Phong kể toàn những chuyến ghe vượt biển không thành : nào là cả tàu bị say sóng nằm liệt rồi bị trôi vào bờ, nào là đi lạc đường lòng vòng rồi lại quay về bến cũ…

Sau mấy hôm ở Phan-rang, chặng tiếp theo là Phan-thiết; tới PT vào lúc quá trưa, ghé nơi nhà bạn ở đối diện nhà thờ Lạc Đạo, hỏi thăm giờ giấc xe lửa và được biết có chuyến tàu chợ vào lúc 9 giờ tối nên nghỉ ngơi, ăn chiều và đón xe đi Mường Mán. Xe lam chỉ đi tới cây số 7 nên phải cuốc bộ thêm 7 cây số nữa mới tới ga xe lửa Mường Mán. Tới nơi thì có tin chuyến tàu chợ bị hủy vì tàu hư, thông tin là thế mà chẳng thấy ai rục rịch tan hàng, tôi hơi thắc mắc nên lân la hỏi thăm thì biết được khoảng nửa đêm sẽ có chuyến tàu Thống Nhất từ Hà Nội vào và còn có thêm chuyến tàu chở đá vào lúc 2 giờ sáng. Thế là tôi cũng lang thang nơi nhà ga, ngấm ngầm chú ý để biết cách xoay sở khi tàu tới. Gần nửa đêm thì tàu TN tới ga, không thấy người xuống nhưng cũng chẳng có người được lên, dù có năn nỉ xin mua vé, dường như tàu chỉ dừng cho đúng thời hạn. Tàu hụ còi báo giờ chuyển bánh sau 20 phút dừng ở ga, nhìn tới nhìn lui tôi thấy có nhiều bóng người thấp thoáng, tôi cũng tiến tới gần đường xe lửa, kiếm một chỗ khuất ánh đèn điện, nấp sau một cái cột. Tàu xình xịch chuyển bánh thì, lập tức, nhiều bóng người túa ra, lần lượt nhảy lên bám vào các khoảng nối giữa hai toa tàu, tôi cũng tìm được một khoảng chỉ mới có một người bám, nhảy lên, đứng trên khúc nối, tay bám toa trước, lưng dựa toa sau. Sau khoảng 20 phút, tàu đã chạy đều, tình hình có vẻ yên ổn, người bạn cùng bám tàu rủ tôi leo lên mui đi về toa cuối kiếm chỗ nằm vì toa cuối là toa hành lý, thấp hơn những toa hành khách nên không có gió; tôi cũng mon men đi về cuối, mới thấy có đến cả mười mấy người đang trải mền trên mui toa cuối, chuẩn bị chỗ nằm một cách rất thành thuộc. Không muốn nhập bọn, tôi vượt vài toa để trở lại phía trước, kiếm một chỗ ngồi trên mui toa sau, gập mình gác trán lên mui toa trước, dùng hai cánh tay làm gối, cứ thế để chờ cho quãng đường từ từ rút ngắn.
Hành trang của tôi không có gì ngoài « bửu bối » đi đường và một bộ đồ để trong cái túi vải nhỏ tròng vào cổ, trên mình khoác cái áo pạc-đờ-suy (pardessus) của anh Sơn để lại để che đỡ mưa gió. Ngồi vừa ngủ lơ mơ vừa phải cảnh giác, suốt đêm còn phải hứng mấy cơn mưa rào, đủ lớn để làm ướt đẫm áo khoác, may là ngồi trên mui có gió quạt phần phật nên nửa giờ sau cơn mưa là quần áo lại khô ráo trở lại. Khoảng 6 giờ sáng thì tàu tới ngang Long Khánh, cảm thấy hơi dị hợm trên mui xe lửa, tôi tụt xuống đứng giữa hai toa tàu cho tới khi tàu hụ còi giảm tốc độ để từ từ tiến vào ga Bình Triệu, vào khoảng 8 giờ sáng.

Tôi nhảy xuống khỏi xe lửa trước khi đoàn tàu tiến vào phạm vi nhà ga, bên ngoài hàng rào lưới thép, để tránh bị xét vé lúc ra cổng. Vòng ra đường cái, tôi bắt xe tiếp tục con đường xuống Bến Lội. Tới nhà cậu Hải khoảng 4 giờ chiều, tôi tranh thủ lúc trời còn sáng để xem xét những gì cần thu hồi, cuối cùng thì hình như tôi không có thêm đồ đạc gì khi rời nhà cậu Hải. Ý tôi cũng chỉ muốn ghé chào cậu để báo cho cậu biết anh Sơn đã ra đi và tôi cũng sẽ không trở lại nữa. Buổi tối ngồi hút thuốc lào nói chuyện với cậu Hải, cậu lấy làm tiếc khi hai anh em đã góp phần vào gia đình cậu trong lúc khó khăn nhất, để đến lúc thấy một chút tương lai tươi sáng hơn thì không còn ở lại để hưởng. Cậu rủ rê tôi ở lại thêm vài ngày nhưng tôi nhất định chỉ tới rồi đi nên cậu cháu cùng bảo nhau lên giường nhắm mắt vài tiếng cho có sức. Chẳng ai có đồng hồ, tôi dự đoán : trăng 17 sẽ treo ở đỉnh đầu vào khoảng 2 giờ sáng, là giờ tôi cần phải ra đi cho kịp chuyến xe. Sau vài tiếng đồng hồ ngủ chập chờn, tôi giật mình thức giấc lúc trăng vừa lên giữa đỉnh đầu, nhẹ nhàng bước xuống nhưng cũng làm cậu Hải thức giấc, tôi từ giã cậu, trở bước lần cuối cùng trên con đường cát 4 cây số ngoằn ngoèo dẫn ra Thị Tính, giữa những bụi cỏ cao còn đẫm sương. (Sơn : Anh có cơ duyên được quen biết và gần gũi với các cậu nhiều hơn chị Tuyết và các em. Với cậu Trực thì đã đành, vì cậu Trực ở ngay trong nhà, nhưng với cậu Hải và cậu Phan, anh cũng có nhiều kỷ niệm thân quen, có lẽ do hoàn cảnh, do lứa tuổi, hay do tính cách thân thiện và thích làm quen của anh. Anh với cậu Hải có nhiều thân tình. Lần đầu cậu ghé thăm, đó là vào khoảng 1960, cậu vừa mới lớn, như cháu Minh Kha nhà mình bây giờ vậy, cao dong dỏng, mặc quần áo đơn sơ. Đó là lần đầu tiên anh gặp cậu. Hai cậu cháu bắt đầu làm quen với nhau. Kỷ niệm vui vui, đó là sau khi chào hỏi cha mẹ xong thì cậu mới hỏi anh : « Sơn có muốn ăn kẹo không ». Trời, kẹo mà đứa con nít nào lại không thèm. Anh liền nhanh nhẩu trả lời rằng « cháu thích ăn, mà có 1 loại kẹo ngon lắm, có bán ngoài hàng của ông bà Lịch, kêu bằng kẹo dứa (kẹo có mùi trái thơm). Cậu muốn ăn thử không ? Cháu dẫn cậu đi mua ». Lúc đó nhà mình còn ở căn nhà phía sau, chưa dời ra phía ngoài đường cái. Từ lúc biết đi mua kẹo cho tới khi đó, chưa bao giờ anh có tiền mua một lần nhiều kẹo dứa như vậy. Cậu mua cho anh không biết bao nhiêu tiền mà được một nắm kẹo thiệt bự, bỏ đầy 2 túi, cầm đầy trong tay mà vẫn còn dư. Anh thích quá, ăn liền tù tì gần chục cái, nhưng còn dư không biết cất đâu, anh bèn dấu nó trong hốc kẹt, ngoài thềm sau cửa nhà. Mua kẹo buổi trưa, chiều ra tìm kẹo thì thấy kiến bu một đống ! Lần thứ hai cậu ghé thăm thì nhà mình đã dọn ra phía trước đường cái, ngay trước mặt lao xá. Khi đó anh đang đi học lớp nhất tại Ba Làng (Thanh Hải). Lần này cậu đã thành một người thanh niên chững chạc, đầu chải bóng láng, mặc áo sơmi bỏ vô quần, đi giày, xức dầu thơm. Cũng trong lần ghé thăm thứ hai này mà cậu đã dẫn anh đi uống cafe trên tỉnh. Uống xong, định ra đón xe lam về, nhưng chiều tối đâu còn xe nữa, cậu cháu đành phải lon ton đi bộ về.
Cậu Hải rất quý mến cha mẹ, và đặc biệt là rất cảm phục tính cách của cha. Cậu rất khéo tay và giỏi về nhiều nghề. Thời gian ở Bến Lội hơn 6 tháng với cậu, chia sẻ gian khổ với nhau đã cho anh thấy nơi cậu hình ảnh của một người quân tử “tiết trực tâm hư” luôn giữ lòng yêu mến dịu dàng với vợ con, với cháu cũng như với mọi người.
)

Tới thị xã Thủ Dầu Một vào khoảng giữa buổi sáng, tôi ghé cừa hàng ăn uống kêu một dĩa thịt bò xào và một chai bia lớn (hiếm lắm mới thấy có cửa hàng ăn uống bán bia vào thời điểm này), ngồi nhâm nhi tính toán quãng đường tiếp theo. Theo lẽ thì tôi trở lại PT, ghé cha Báu trả món nợ là có thể xuôi đường về nhà vì công tác hoàn tất nhưng tôi vẫn còn tiếc những ngày rong ruổi, có thể đây là chuyến đi xa cuối cùng trước khi về chôn chân nơi xóm làng Đức Minh. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu : sao không nhân cơ hội ghé thăm chị Tuyết, chị ở Cà Mau nhưng chưa bao giờ biết nơi đó ra sao.

Về tới SG, không còn nhớ đã qua đêm tại đâu nhưng chỉ còn nhớ đã đi mua vé xe đi Cần-thơ cho ngày hôm sau và có ghé qua khu Tân-định thăm Thảo (con ông bà Thư), đang đi học may ở SG. Chẳng biết mô tê gì về đường xuống Cà-mau nhưng, như mẹ thường nói : « đường nằm nơi lỗ miệng », tôi mạnh dạn đáp xe xuống Cần-thơ, ghé tới nhà thờ Cần-thơ, nơi anh Sơn đã dẫn tôi tới một năm trước đó, gặp chị Chín và hỏi thăm đường đi nước bước để đi tìm chị Tuyết, trong khi trong tay chỉ có vỏn vẹn cái địa chỉ để gửi thư. Chị Chín đi tìm chị Tơ để hỏi thăm dùm tôi nhưng chị Tơ cũng chẳng biết làm sao để đi Cái Rắn, chỉ cho biết đi Cà-mau có thể đi xe hoặc đi tàu và khuyên nên đi tàu vì tuy tốn thời giờ nhưng rẻ tiền hơn. Tôi có dư thì giờ và cũng muốn đi tàu cho biết nên quyết định sẽ đi Cà-mau bằng tàu, chị Tơ hẹn sáng sớm hôm sau sẽ tới đưa tôi ra bến Ninh Kiều.

Tàu từ Cần-thơ đi Cà-mau là loại ghe bầu đi trên sông, có thể chứa đến hơn trăm khách. Mỗi người trả tiền để bước lên ghe rồi là tự ai nấy lo, trời còn tối nên có nhiều người trải chiếu để hoàn tất giấc ngủ dở dang, kẻ đứng, người ngồi, kẻ bán, người mua… ôi thôi, đủ mọi thứ và đủ mọi loại người. Sau khi dạo lòng vòng cho biết, tôi tìm một chỗ đứng gần đầu mũi để tiện quan sát; giờ khởi hành đã đến, ghe nổ máy chuyển mình, tà tà gặm từng khúc sông quanh co. Một giờ, hai giờ rồi ba giờ sau khi ghe rời bến, tôi cũng chỉ thấy một khung cảnh : dòng sông quanh co, nhiều tảng lục bình lờ lững trôi trong dòng nước ngả màu vàng đục, hai bờ sông rợp cây cối ẩn hiện vài mái nhà lặng lẽ, thỉnh thoảng có vài điểm quang đãng trên bờ sông, là những tụ điểm chợ búa của xóm làng miền Nam. Sông không rộng, chắc chỉ hơn 200 thước, ghe lại chạy chậm, lúc ghé bờ này bỏ hàng, lúc tạt vào bờ kia đón khách nên tôi có cảm tưởng như đang đi dạo chơi trong một cái làng nhỏ chứ không có cảm giác của một chuyến đi đường dài. Hành trình hơn 10 tiếng đồng hồ trên sông đưa tôi tới thành phố tận cùng phía Nam của đất nước, bước lên bến, tôi bắt xe ôm xin tới nhà thờ theo địa chỉ gửi thư cho chị Tuyết (có phải là nhà thờ Quản Long?), đi vào khuôn viên nhà xứ tôi gặp mấy em bé đang sinh hoạt đoàn thể nên hỏi thăm và được chỉ tới nhà của mấy xơ.

Bước vào nhà, tôi vào đề ngay lập tức : « Lần đầu tiên tới Cà-mau, nhờ mấy xơ chỉ đường cho đi Cái Rắn để thăm chị Tuyết, dòng CQP ». Mấy xơ chưa hết ngỡ ngàng thắc mắc thì có một chị (không nhớ rõ tên, có phải là chị Thắm?), cùng học với chị Tuyết, bỏ việc dở dang trong bếp, chạy lên la mừng rối rít : « A, Thạch này, em chị Tuyết đó. Đi đâu tận tới đây? ». Không khí nghi ngại đã tan biến, tôi trở thành vị khách mà các xơ phải đùm bọc; lúc này tôi mới biết không dễ gì đi tới giang sơn của chị Tuyết, chỉ còn cầu may chị Tuyết có việc phải chèo xuồng ra thành phố thì mới gặp được. Trong khi chờ bữa cơm chiều, tôi ngồi nhìn mấy xơ làm bánh lễ, sau đó được mời ngủ đêm lại trên chiếc ghế bố kê thêm nơi phòng khách.
Sáng hôm sau, chị T cho biết : xuồng máy chở khách đi Cái Rắn (cách Cà-mau gần 20 cây số) đang ngưng hoạt động, chưa biết khi nào chạy trở lại. Chị T đề nghị ở lại Cà-mau chơi ít hôm để xem có liên lạc được với chị Tuyết không, và chị ấy chỉ đường để đi bộ khoảng 7 cây số tới gia đình chị ấy ở Hòa-Thành để ở đó chơi và nhờ mấy đứa em của chị ấy dẫn đi thăm nhà bác Năm (ông Phước). Rời thành phố, rảo bộ trên con đường đất dẫn đến Hòa Thành, vừa ngắm đồng nước vừa quan sát sinh hoạt của các nông dân, tôi phát giác ra được nhiều cái mới lạ : ruộng đồng miền Nam nước ngập đến ngang hông chứ không cạn như những đồng lúa mà tôi đã gặp ở Phan Rang, Phan Thiết, Nha Trang hay Ban Mê Thuột, thành ra cây mạ miền Nam cũng dài gần cả thước chứ không ngắn đụt 3 tấc như ở những vùng khác; những người đi cấy lúa đều đeo theo bên hông một cái dùi gỗ, dài hơn nửa thước, lớn bằng cổ tay mà lúc đó tôi chưa biết dùng để làm gì, sau này nhờ người giải thích tôi mới biết được công dụng của nó. (Sơn: Công dụng của nó là gì, Thạch nói thêm cho rõ đi. Hay là ra câu đố coi ai đoán trúng công dụng của cái dùi thì sẽ được anh Thạch thưởng !! Giang: Chắc cái đó dùng làm ghế ngồi nghỉ ngay giữa ruộng!? )
Tới Hòa Thành vào khoảng hơn 9 giờ sáng, tôi theo chỉ dẫn của chị T và tìm được tới nhà chị ấy không mấy khó khăn, theo lời dặn để mở lời nên được niềm nở mời vào nhà ngay, tôi bắt đầu thực sự tiếp xúc với con người và sông nước miền Nam. Sau khi trò truyện một lát thì em chị T mới dẫn tôi tới nhà bác Năm, trước sự kinh ngạc của mấy người con ông Phước đang ở trông nhà trong lúc những người khác trong gia đình đã lên đường đi làm củi, làm cá cả tuần lễ. Mấy ngày ở Hòa Thành, tôi lúc ở nhà này lúc chơi nhà kia, cho tới một buổi tối kia thì thấy chị Tuyết tới. Qua hôm sau tôi được chị Tuyết và một chị khác nữa chèo xuồng chở tôi đi Cái Rắn, quả là một vùng khỉ ho cò gáy, nghèo khổ và thiếu thốn.
Sau mấy hôm thăm Cái Rắn, tôi trở lại Hòa Thành, nơi nhà ông Phước và ở đó chờ gặp ông bà ấy theo lời đề nghị của chị Nghĩa (con ông Phước). Trở về sau hơn 1 tuần lễ rong ruổi nơi vùng Năm Căn, ông bà Phước cũng rất ngạc nhiên khi thấy tôi mò được tới tận cùng đất nước; qua nhiều thăm dò, trao đổi, cuối cùng thì mọi người cũng đi tới một thỏa hiệp hợp tác cho tương lai. Tôi từ giã Cà-mau sau 2 tuần làm quen với sông nước.
Trên đường từ Sài Gòn ra Phan Thiết, tôi ghé lại nhà chú Bích nơi cây số 18 trước khi ghé tới cha Báu để thanh toán món nợ, và còn phải quay lại cơ sở của mấy xơ dòng MTG ở Thuận Nghĩa để lấy lại cái xách hành lý của anh Sơn mà cha Báu cho xơ Lý mượn. Công việc xong xuôi, tôi trở lại Tháp Chàm để cùng Phong về nhà (hình như Phong đang chuẩn bị khăn gói đi Tuy Hòa).

Một buổi sáng sớm, hai anh em bắt xe lửa đi Nha Trang, mang thêm mấy khúc dây nho trong hành lý. Lần tới bến xe, lúc ấy vẫn còn trước nhà thờ Phước Hải, chúng tôi thấy người chờ thì đông nhưng quầy vé vẫn đóng cửa kín mít, mọi người kiên nhẫn sắp hàng chờ đợi, cùng ngồi bệt xuống đất cho khỏi mỏi chân. Thỉnh thoảng có vài em bé bán dạo lướt qua chào mời thuốc lá, kẹo cao-su, ngồi rảnh rỗi nên gặp lúc có 2 cô bé  khoảng 14-15 tuổi mời mua hàng Phong bắt đầu mở miệng ghẹo, không hiểu cái giọng lai Nam của Phong hấp dẫn thế nào mà 2 cô bé cứ lượn đi lượn lại hoài. Chờ tới quá trưa thì thấy có thông báo phòng vé không mở cửa hôm đó, anh em đành rời phòng vé. Tới đây thì tôi không còn nhớ đã làm gì trong buổi chiều và đêm hôm đó, ngủ ở đâu cũng không còn ấn tượng nhưng chắc là trở lại TGM.
Ngày hôm sau anh em trở lại bến xe, lại tiếp tục sắp hàng ngồi đợi, hy vọng phòng vé mở cửa; 2 cô bé ngày hôm trước lại sà tới, thân thiện hơn và cùng ngồi luôn lại đó trò truyện, quên luôn chuyện phải đi rong bán hàng, cho mãi tới trưa, lúc quầy vé mở cửa mới chịu rời bước. Hình như vé mua được để đi ngày hôm sau nên còn phải ở lại Nha Trang thêm một đêm nữa. Không biết Phong có còn nhớ chi tiết chuyến về nhà này không, còn tôi chỉ còn nhớ mang máng. Chỉ còn nhớ hai anh em đã ra bến xe thật sớm, quán sá chưa mở cửa; sau khi rảo qua rảo lại khu vực bến xe thì có một quán bắt đầu mở cửa, anh em vào gọi 2 ly cà phê sữa, 2 phin cà phê đã nhỏ tới giọt cuối cùng mà không thấy chủ quán mang thêm nước sôi nên đành bắt đầu nhấm nháp cà phê đậm đặc trong lúc chờ chủ quán xuất hiện để xin nước sôi. Tuy có xin thêm nước sôi nhưng mãi vẫn không thấy có, 2 anh em tự hỏi uống cà phê sữa đậm đặc như vậy mới là đúng kiểu hay vì tiệm chưa kịp đun nước sôi; cả hai anh em, chưa ai từng uống một ly cà phê sữa đậm đặc như thế.

Những dây nho mang về nhà được cắt khúc, ươm vào các bịch ny-lông và có được 2, 3 khúc nẩy mầm, tôi chuẩn bị cho một kế hoạch………dang dở.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét