Vân, Phong, Trinh, Nguyên chắc vẫn còn nhớ những trò mình thường chơi lúc còn nhỏ, ngoài mấy màn chơi ô, chơi cò, bịt mắt bắt dê, trò búng giây thun, lật nắp keng còn có thêm mấy trò chơi mà mấy anh em thường chơi chung với nhau.
1. Vật lộn : tôi thường một mình chấp hết cả mấy em, nằm cho bị đè trước rồi mới bắt đầu vật lại. Trời nóng nhưng nền nhà thật mát nên mấy anh em hay nằm chơi lăn lóc trên nền nhà. Không cần đồ chơi nhưng thật vui.
2. Xây ổ : mấy anh em thường lấy nhiều ghế đặt nằm xuống nền nhà, dùng mền và chiếu phủ lên trên, tạo ra những ngóc ngách, cửa ra, cửa vào rồi bò tới bò lui trong đó chơi, tưởng tượng như sống trong hang động. Đôi khi dựng lên 2 tụ rồi dùng cùi bắp chơi ném tấn công nhau. (Sơn: Trò chơi này anh cũng có tham gia, không nhớ là trước khi anh đi tu ở Tiểu Chủng Viện Sao Biển hay sau đó. Sự hào hứng và gay cấn thì không thể quên được. Chơi xong, thu dọn chiến trường là mệt nhất vì phải cất đặt bàn ghế lại chỗ cũ, xếp chăn mền gối rồi quét nhà cho sạch sẽ.)
Có một trò khác thường chơi trên giường vào buổi tối, mọi người chui hết vào mền, thỉnh thoảng thò thụt một bàn tay ra ngoài. Một đứa ở ngoài làm cá sấu, bắt được bàn tay của ai thì người đó phải ra ngoài thế chỗ.
3. (Sơn: Một trò chơi rất đơn sơ khác mà thời chị Tuyết với anh rất thích, đó là buổi tối cơm nước xong, cha nằm trên giường, 2 chị em chui qua chân cha và nói rằng chui qua cầu. Lâu lâu cha lại hạ chân xuống làm như cầu sập, đè mình chết dí. Cái thú vị là do sự căng thẳng không biết khi nào thì bị sập cầu và sự vùng vẫy để thoát ra khi bị đè xuống. Anh nhớ hình như cha còn chơi trò này với các em về sau, cho tới khi lên Dakmil mới hết.)
24/5/10
Leo đá sống
Ở phía bên trái nhà ông bà ngoại đi xuống có một khu vực dành để kính thánh Phê-rô. Nơi đây cũng có một số hòn đá sống (là các tảng đá lớn tự nhiên tạo thành những quả đồi nhỏ, càng ngày càng lớn ra). Vì thế nơi đây trở thành nơi vui chơi cho rất nhiều người, nhất là các em thiếu nhi và thiếu niên.
Mỗi lần về quê, lần nào cháu cũng cố gắng dành một buổi để đi leo đá sống. Nhưng vì là dân thành thị nên cháu không có kinh nghiệm leo trèo nên không tài nào leo được, lúc nào cũng nhờ mọi người kéo lên còn mình cố bám chắc vào quả đồi. Ba Chánh thấy cháu như vậy thì nói rằng: “Con muốn vui thì phải tự mình leo lấy chứ!” Và ngay hôm đó, cháu cùng ba Chánh tập leo đồi. Việc này thật không dễ tí nào, các quả đồi rất trơn và leo rất đau tay, mấy lần cháu đã muốn bỏ cuộc, nhưng mọi người động viên cháu nên cháu đã không bỏ cuộc. Cuối cùng, cháu đã lên được tới đỉnh đồi. Cảm giác lúc này thật là vui. Sau khi hóng mát và chụp hình, mọi người bắt đầu leo xuống để về nhà. Lúc này, cháu mới nhận ra leo lên tới đây rồi giờ sao xuống đây? Thế là cuộc hành trình tập leo xuống lại tiếp tục. Cháu bắt đầu ngồi xuống và lần theo triền đồi để xuống. Ba Chánh nói làm thế khi xuống rất khó, phải quay mặt vô đồi leo mới dễ. Thế là cháu nghe lời ba, thử quay mặt vô đồi, nhưng càng làm càng thấy khó leo hơn vì không thấy đường. Nhưng ba Chánh đã khích lệ cháu và cuối cùng cháu đã leo xuống được. Sau lần này cháu không còn phải bận tâm chuyện leo đồi nữa.
Mỗi lần về quê, lần nào cháu cũng cố gắng dành một buổi để đi leo đá sống. Nhưng vì là dân thành thị nên cháu không có kinh nghiệm leo trèo nên không tài nào leo được, lúc nào cũng nhờ mọi người kéo lên còn mình cố bám chắc vào quả đồi. Ba Chánh thấy cháu như vậy thì nói rằng: “Con muốn vui thì phải tự mình leo lấy chứ!” Và ngay hôm đó, cháu cùng ba Chánh tập leo đồi. Việc này thật không dễ tí nào, các quả đồi rất trơn và leo rất đau tay, mấy lần cháu đã muốn bỏ cuộc, nhưng mọi người động viên cháu nên cháu đã không bỏ cuộc. Cuối cùng, cháu đã lên được tới đỉnh đồi. Cảm giác lúc này thật là vui. Sau khi hóng mát và chụp hình, mọi người bắt đầu leo xuống để về nhà. Lúc này, cháu mới nhận ra leo lên tới đây rồi giờ sao xuống đây? Thế là cuộc hành trình tập leo xuống lại tiếp tục. Cháu bắt đầu ngồi xuống và lần theo triền đồi để xuống. Ba Chánh nói làm thế khi xuống rất khó, phải quay mặt vô đồi leo mới dễ. Thế là cháu nghe lời ba, thử quay mặt vô đồi, nhưng càng làm càng thấy khó leo hơn vì không thấy đường. Nhưng ba Chánh đã khích lệ cháu và cuối cùng cháu đã leo xuống được. Sau lần này cháu không còn phải bận tâm chuyện leo đồi nữa.
Sợ ma ... và chó!
Câu chuyện của cháu xảy ra vào Tết năm 2007.
Mỗi năm một lần, giáo xứ Xã Đoài nơi nhà ông bà ngoại lại có hội chợ vui Tết do các anh chị thiếu niên trong nhà thờ tình nguyện tổ chức. Các hội chợ phần lớn là xảy ra vào buổi chiều tối. Những con đường đất ở sâu bên trong phần lớn là không có đèn đường nên những buổi tối không trăng các con đường tối đen như mực.
Như mọi năm, cháu cùng em Diệu Đan, em Minh cùng các chị con dì Thủy đi dự hội chợ. Sau khi coi văn nghệ xong và chơi hết sạch tiền, cháu và hai chị, em Diệu Đan và Minh bắt đầu ra về, ôm một đống quà nào là nước ngọt, bánh, kẹo. Đi một quãng xa hội chợ thì mới thấy đoạn đường phía trước tối đen đến rợn người, không có một chiếc đèn đường nào được thắp sáng. Một quãng đường dài không một bóng người qua lại, lâu lâu mới có chút ánh sáng lấm lét từ cửa sổ nhà người ta. Đi trên đường dù là một đoàn đông người nhưng vẫn có cảm giác sợ sệt vì cảnh vắng vẻ, tối om của con đường đang đi. Đã vậy các chú chó nhà người ta thấy cháu đi ngang thì sủa liên hồi, lỡ chó dứt dây ra đuổi cháu thì không biết chạy phương nào. Trong khi cháu cứ sợ sệt thì nhìn qua hai chị và em Diệu Đan không có vẻ gì là sợ mà còn nói chuyện ríu rít nữa chứ.
Cảm giác sợ đó vẫn còn ám ảnh cháu cho đến bây giờ. Nghĩ lại thì lúc đó công nhận cháu nhát thiệt!
Mỗi năm một lần, giáo xứ Xã Đoài nơi nhà ông bà ngoại lại có hội chợ vui Tết do các anh chị thiếu niên trong nhà thờ tình nguyện tổ chức. Các hội chợ phần lớn là xảy ra vào buổi chiều tối. Những con đường đất ở sâu bên trong phần lớn là không có đèn đường nên những buổi tối không trăng các con đường tối đen như mực.
Như mọi năm, cháu cùng em Diệu Đan, em Minh cùng các chị con dì Thủy đi dự hội chợ. Sau khi coi văn nghệ xong và chơi hết sạch tiền, cháu và hai chị, em Diệu Đan và Minh bắt đầu ra về, ôm một đống quà nào là nước ngọt, bánh, kẹo. Đi một quãng xa hội chợ thì mới thấy đoạn đường phía trước tối đen đến rợn người, không có một chiếc đèn đường nào được thắp sáng. Một quãng đường dài không một bóng người qua lại, lâu lâu mới có chút ánh sáng lấm lét từ cửa sổ nhà người ta. Đi trên đường dù là một đoàn đông người nhưng vẫn có cảm giác sợ sệt vì cảnh vắng vẻ, tối om của con đường đang đi. Đã vậy các chú chó nhà người ta thấy cháu đi ngang thì sủa liên hồi, lỡ chó dứt dây ra đuổi cháu thì không biết chạy phương nào. Trong khi cháu cứ sợ sệt thì nhìn qua hai chị và em Diệu Đan không có vẻ gì là sợ mà còn nói chuyện ríu rít nữa chứ.
Cảm giác sợ đó vẫn còn ám ảnh cháu cho đến bây giờ. Nghĩ lại thì lúc đó công nhận cháu nhát thiệt!
Đói bụng - Buồn ngủ
Nghe có vẻ ngược đời, phải no bụng mới buồn ngủ chứ ! Đây là chuyện về Vân.
Bây giờ thấy Vân ít bị đau vặt nhưng lúc còn bé Vân rất hay ốm, ho cảm liên miên; bị ho ít hôm là nhiễm vào phổi, xài thuốc trụ sinh nhiều nên mẹ sợ Vân không phát triển được bình thường. Hơn 5 tuổi rồi mà Vân vẫn nói lộn : lúc đói bụng quá thì nói là buồn ngủ, ngược lại, lúc buồn ngủ lại kêu đói bụng. Mẹ lấy cơm cho ăn thì chưa đụng vào chén cơm đã ngủ rục mất tiêu. (Sơn : Khi mới vài ba tuổi, có lần Vân bị bệnh kiết lỵ rất nặng và kéo dài lâu không bớt. Cha đi mua thuốc khắp nơi, uống đủ loại mà không lành. Vân nằm lim dim uể oải, bụng sình lên, ăn uống không được, đi cầu suốt ngày, ủ rũ mệt nhọc, thấy tội nghiệp vô cùng. Cũng trong lần đau ốm đó cha mới nói không biết em có sống được không! Sau đó, nhờ uống nước rau má giã nát mà Vân dần dần khỏe lại. Lúc nhỏ thì như vậy, mà sau này lớn lên Vân lại khỏe mạnh dẻo dai, giúp mẹ làm việc nhiều trước khi lấy chồng).
Thời gian cha không có ở nhà, có lẽ lúc cha đang ở Bình Chính, một buổi trưa, mẹ bắt Thạch và Vân đi ngủ trưa, chắc vì mẹ bận bán cây, bán lá nên hai đứa chơi loanh quanh chẳng chịu đi ngủ, tới lúc mẹ phát giác ra mới bị la cho một trận và mẹ bắt hai đứa vào nằm trên giường chờ mẹ trị tội. Hai đứa vào nằm sấp trên giường chờ hoài mà mẹ cứ mắc khách, nằm trên giường chán nên hai đứa cùng bò xuống dưới giường nằm ngắt những cọng cói bị lòi ra từ những chỗ chiếu rách. Chơi rồi tới lúc hai đứa cùng nằm dưới gầm giường ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Khi tôi thức dậy thì phát giác ra mình vẫn chưa bị đòn, nhìn qua bên thì thấy Vân vẫn còn say sưa trong giấc ngủ, bàn tay còn nắm chặt những cọng cói : hình ảnh làm tôi cảm thấy thương đứa em chi lạ! (Sơn : Hình ảnh quá đẹp ! Thật tuyệt vời ! Ai mà không thương)
Hình ảnh này vẫn theo tôi, luôn luôn rõ nét, như một điểm son trong kho tàng kỷ niệm.
Bây giờ thấy Vân ít bị đau vặt nhưng lúc còn bé Vân rất hay ốm, ho cảm liên miên; bị ho ít hôm là nhiễm vào phổi, xài thuốc trụ sinh nhiều nên mẹ sợ Vân không phát triển được bình thường. Hơn 5 tuổi rồi mà Vân vẫn nói lộn : lúc đói bụng quá thì nói là buồn ngủ, ngược lại, lúc buồn ngủ lại kêu đói bụng. Mẹ lấy cơm cho ăn thì chưa đụng vào chén cơm đã ngủ rục mất tiêu. (Sơn : Khi mới vài ba tuổi, có lần Vân bị bệnh kiết lỵ rất nặng và kéo dài lâu không bớt. Cha đi mua thuốc khắp nơi, uống đủ loại mà không lành. Vân nằm lim dim uể oải, bụng sình lên, ăn uống không được, đi cầu suốt ngày, ủ rũ mệt nhọc, thấy tội nghiệp vô cùng. Cũng trong lần đau ốm đó cha mới nói không biết em có sống được không! Sau đó, nhờ uống nước rau má giã nát mà Vân dần dần khỏe lại. Lúc nhỏ thì như vậy, mà sau này lớn lên Vân lại khỏe mạnh dẻo dai, giúp mẹ làm việc nhiều trước khi lấy chồng).
Thời gian cha không có ở nhà, có lẽ lúc cha đang ở Bình Chính, một buổi trưa, mẹ bắt Thạch và Vân đi ngủ trưa, chắc vì mẹ bận bán cây, bán lá nên hai đứa chơi loanh quanh chẳng chịu đi ngủ, tới lúc mẹ phát giác ra mới bị la cho một trận và mẹ bắt hai đứa vào nằm trên giường chờ mẹ trị tội. Hai đứa vào nằm sấp trên giường chờ hoài mà mẹ cứ mắc khách, nằm trên giường chán nên hai đứa cùng bò xuống dưới giường nằm ngắt những cọng cói bị lòi ra từ những chỗ chiếu rách. Chơi rồi tới lúc hai đứa cùng nằm dưới gầm giường ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Khi tôi thức dậy thì phát giác ra mình vẫn chưa bị đòn, nhìn qua bên thì thấy Vân vẫn còn say sưa trong giấc ngủ, bàn tay còn nắm chặt những cọng cói : hình ảnh làm tôi cảm thấy thương đứa em chi lạ! (Sơn : Hình ảnh quá đẹp ! Thật tuyệt vời ! Ai mà không thương)
Hình ảnh này vẫn theo tôi, luôn luôn rõ nét, như một điểm son trong kho tàng kỷ niệm.
12/5/10
Khám phá Cà Mau
Năm 1980, sau khi anh Sơn ra đi được một thời gian thì thấy cha Báu nhắn về nhà là cần thanh toán tiền một chiếc xe đạp mà anh Sơn đã mượn để ra bãi đáp. Tôi được giao nhiệm vụ đi Phan-thiết, nhân tiện ghé về Bến-lội để gom góp những đồ đạc hai anh em còn để lại ở đó.
Rời Đức-minh đi Bmt và Nha-trang trong ngày, tôi ghé vào TGM Nha-trang thăm mấy đứa bạn còn tu học tại đó, buổi tối nằm ngủ trong cái nhà ngủ thênh thang nay chỉ cho dành cho một tiểu đội. Ngày hôm sau bắt xe đi Phan-rang, hình như cái xe khách nhỏ chạy bằng than vì xăng dầu khá khan hiếm trong giai đoạn này. Ghé thăm và ở lại với Phong vài ngày tại Tháp Chàm, có buổi đi vào vườn hái ổi, có ngày đạp xe đạp cùng với mấy bạn của Phong đi tắm biển và còn có đi rạp xem phim nữa. Đôi lúc nghe Phong kể toàn những chuyến ghe vượt biển không thành : nào là cả tàu bị say sóng nằm liệt rồi bị trôi vào bờ, nào là đi lạc đường lòng vòng rồi lại quay về bến cũ…
Sau mấy hôm ở Phan-rang, chặng tiếp theo là Phan-thiết; tới PT vào lúc quá trưa, ghé nơi nhà bạn ở đối diện nhà thờ Lạc Đạo, hỏi thăm giờ giấc xe lửa và được biết có chuyến tàu chợ vào lúc 9 giờ tối nên nghỉ ngơi, ăn chiều và đón xe đi Mường Mán. Xe lam chỉ đi tới cây số 7 nên phải cuốc bộ thêm 7 cây số nữa mới tới ga xe lửa Mường Mán. Tới nơi thì có tin chuyến tàu chợ bị hủy vì tàu hư, thông tin là thế mà chẳng thấy ai rục rịch tan hàng, tôi hơi thắc mắc nên lân la hỏi thăm thì biết được khoảng nửa đêm sẽ có chuyến tàu Thống Nhất từ Hà Nội vào và còn có thêm chuyến tàu chở đá vào lúc 2 giờ sáng. Thế là tôi cũng lang thang nơi nhà ga, ngấm ngầm chú ý để biết cách xoay sở khi tàu tới. Gần nửa đêm thì tàu TN tới ga, không thấy người xuống nhưng cũng chẳng có người được lên, dù có năn nỉ xin mua vé, dường như tàu chỉ dừng cho đúng thời hạn. Tàu hụ còi báo giờ chuyển bánh sau 20 phút dừng ở ga, nhìn tới nhìn lui tôi thấy có nhiều bóng người thấp thoáng, tôi cũng tiến tới gần đường xe lửa, kiếm một chỗ khuất ánh đèn điện, nấp sau một cái cột. Tàu xình xịch chuyển bánh thì, lập tức, nhiều bóng người túa ra, lần lượt nhảy lên bám vào các khoảng nối giữa hai toa tàu, tôi cũng tìm được một khoảng chỉ mới có một người bám, nhảy lên, đứng trên khúc nối, tay bám toa trước, lưng dựa toa sau. Sau khoảng 20 phút, tàu đã chạy đều, tình hình có vẻ yên ổn, người bạn cùng bám tàu rủ tôi leo lên mui đi về toa cuối kiếm chỗ nằm vì toa cuối là toa hành lý, thấp hơn những toa hành khách nên không có gió; tôi cũng mon men đi về cuối, mới thấy có đến cả mười mấy người đang trải mền trên mui toa cuối, chuẩn bị chỗ nằm một cách rất thành thuộc. Không muốn nhập bọn, tôi vượt vài toa để trở lại phía trước, kiếm một chỗ ngồi trên mui toa sau, gập mình gác trán lên mui toa trước, dùng hai cánh tay làm gối, cứ thế để chờ cho quãng đường từ từ rút ngắn.
Hành trang của tôi không có gì ngoài « bửu bối » đi đường và một bộ đồ để trong cái túi vải nhỏ tròng vào cổ, trên mình khoác cái áo pạc-đờ-suy (pardessus) của anh Sơn để lại để che đỡ mưa gió. Ngồi vừa ngủ lơ mơ vừa phải cảnh giác, suốt đêm còn phải hứng mấy cơn mưa rào, đủ lớn để làm ướt đẫm áo khoác, may là ngồi trên mui có gió quạt phần phật nên nửa giờ sau cơn mưa là quần áo lại khô ráo trở lại. Khoảng 6 giờ sáng thì tàu tới ngang Long Khánh, cảm thấy hơi dị hợm trên mui xe lửa, tôi tụt xuống đứng giữa hai toa tàu cho tới khi tàu hụ còi giảm tốc độ để từ từ tiến vào ga Bình Triệu, vào khoảng 8 giờ sáng.
Tôi nhảy xuống khỏi xe lửa trước khi đoàn tàu tiến vào phạm vi nhà ga, bên ngoài hàng rào lưới thép, để tránh bị xét vé lúc ra cổng. Vòng ra đường cái, tôi bắt xe tiếp tục con đường xuống Bến Lội. Tới nhà cậu Hải khoảng 4 giờ chiều, tôi tranh thủ lúc trời còn sáng để xem xét những gì cần thu hồi, cuối cùng thì hình như tôi không có thêm đồ đạc gì khi rời nhà cậu Hải. Ý tôi cũng chỉ muốn ghé chào cậu để báo cho cậu biết anh Sơn đã ra đi và tôi cũng sẽ không trở lại nữa. Buổi tối ngồi hút thuốc lào nói chuyện với cậu Hải, cậu lấy làm tiếc khi hai anh em đã góp phần vào gia đình cậu trong lúc khó khăn nhất, để đến lúc thấy một chút tương lai tươi sáng hơn thì không còn ở lại để hưởng. Cậu rủ rê tôi ở lại thêm vài ngày nhưng tôi nhất định chỉ tới rồi đi nên cậu cháu cùng bảo nhau lên giường nhắm mắt vài tiếng cho có sức. Chẳng ai có đồng hồ, tôi dự đoán : trăng 17 sẽ treo ở đỉnh đầu vào khoảng 2 giờ sáng, là giờ tôi cần phải ra đi cho kịp chuyến xe. Sau vài tiếng đồng hồ ngủ chập chờn, tôi giật mình thức giấc lúc trăng vừa lên giữa đỉnh đầu, nhẹ nhàng bước xuống nhưng cũng làm cậu Hải thức giấc, tôi từ giã cậu, trở bước lần cuối cùng trên con đường cát 4 cây số ngoằn ngoèo dẫn ra Thị Tính, giữa những bụi cỏ cao còn đẫm sương. (Sơn : Anh có cơ duyên được quen biết và gần gũi với các cậu nhiều hơn chị Tuyết và các em. Với cậu Trực thì đã đành, vì cậu Trực ở ngay trong nhà, nhưng với cậu Hải và cậu Phan, anh cũng có nhiều kỷ niệm thân quen, có lẽ do hoàn cảnh, do lứa tuổi, hay do tính cách thân thiện và thích làm quen của anh. Anh với cậu Hải có nhiều thân tình. Lần đầu cậu ghé thăm, đó là vào khoảng 1960, cậu vừa mới lớn, như cháu Minh Kha nhà mình bây giờ vậy, cao dong dỏng, mặc quần áo đơn sơ. Đó là lần đầu tiên anh gặp cậu. Hai cậu cháu bắt đầu làm quen với nhau. Kỷ niệm vui vui, đó là sau khi chào hỏi cha mẹ xong thì cậu mới hỏi anh : « Sơn có muốn ăn kẹo không ». Trời, kẹo mà đứa con nít nào lại không thèm. Anh liền nhanh nhẩu trả lời rằng « cháu thích ăn, mà có 1 loại kẹo ngon lắm, có bán ngoài hàng của ông bà Lịch, kêu bằng kẹo dứa (kẹo có mùi trái thơm). Cậu muốn ăn thử không ? Cháu dẫn cậu đi mua ». Lúc đó nhà mình còn ở căn nhà phía sau, chưa dời ra phía ngoài đường cái. Từ lúc biết đi mua kẹo cho tới khi đó, chưa bao giờ anh có tiền mua một lần nhiều kẹo dứa như vậy. Cậu mua cho anh không biết bao nhiêu tiền mà được một nắm kẹo thiệt bự, bỏ đầy 2 túi, cầm đầy trong tay mà vẫn còn dư. Anh thích quá, ăn liền tù tì gần chục cái, nhưng còn dư không biết cất đâu, anh bèn dấu nó trong hốc kẹt, ngoài thềm sau cửa nhà. Mua kẹo buổi trưa, chiều ra tìm kẹo thì thấy kiến bu một đống ! Lần thứ hai cậu ghé thăm thì nhà mình đã dọn ra phía trước đường cái, ngay trước mặt lao xá. Khi đó anh đang đi học lớp nhất tại Ba Làng (Thanh Hải). Lần này cậu đã thành một người thanh niên chững chạc, đầu chải bóng láng, mặc áo sơmi bỏ vô quần, đi giày, xức dầu thơm. Cũng trong lần ghé thăm thứ hai này mà cậu đã dẫn anh đi uống cafe trên tỉnh. Uống xong, định ra đón xe lam về, nhưng chiều tối đâu còn xe nữa, cậu cháu đành phải lon ton đi bộ về.
Cậu Hải rất quý mến cha mẹ, và đặc biệt là rất cảm phục tính cách của cha. Cậu rất khéo tay và giỏi về nhiều nghề. Thời gian ở Bến Lội hơn 6 tháng với cậu, chia sẻ gian khổ với nhau đã cho anh thấy nơi cậu hình ảnh của một người quân tử “tiết trực tâm hư” luôn giữ lòng yêu mến dịu dàng với vợ con, với cháu cũng như với mọi người.)
Tới thị xã Thủ Dầu Một vào khoảng giữa buổi sáng, tôi ghé cừa hàng ăn uống kêu một dĩa thịt bò xào và một chai bia lớn (hiếm lắm mới thấy có cửa hàng ăn uống bán bia vào thời điểm này), ngồi nhâm nhi tính toán quãng đường tiếp theo. Theo lẽ thì tôi trở lại PT, ghé cha Báu trả món nợ là có thể xuôi đường về nhà vì công tác hoàn tất nhưng tôi vẫn còn tiếc những ngày rong ruổi, có thể đây là chuyến đi xa cuối cùng trước khi về chôn chân nơi xóm làng Đức Minh. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu : sao không nhân cơ hội ghé thăm chị Tuyết, chị ở Cà Mau nhưng chưa bao giờ biết nơi đó ra sao.
Về tới SG, không còn nhớ đã qua đêm tại đâu nhưng chỉ còn nhớ đã đi mua vé xe đi Cần-thơ cho ngày hôm sau và có ghé qua khu Tân-định thăm Thảo (con ông bà Thư), đang đi học may ở SG. Chẳng biết mô tê gì về đường xuống Cà-mau nhưng, như mẹ thường nói : « đường nằm nơi lỗ miệng », tôi mạnh dạn đáp xe xuống Cần-thơ, ghé tới nhà thờ Cần-thơ, nơi anh Sơn đã dẫn tôi tới một năm trước đó, gặp chị Chín và hỏi thăm đường đi nước bước để đi tìm chị Tuyết, trong khi trong tay chỉ có vỏn vẹn cái địa chỉ để gửi thư. Chị Chín đi tìm chị Tơ để hỏi thăm dùm tôi nhưng chị Tơ cũng chẳng biết làm sao để đi Cái Rắn, chỉ cho biết đi Cà-mau có thể đi xe hoặc đi tàu và khuyên nên đi tàu vì tuy tốn thời giờ nhưng rẻ tiền hơn. Tôi có dư thì giờ và cũng muốn đi tàu cho biết nên quyết định sẽ đi Cà-mau bằng tàu, chị Tơ hẹn sáng sớm hôm sau sẽ tới đưa tôi ra bến Ninh Kiều.
Tàu từ Cần-thơ đi Cà-mau là loại ghe bầu đi trên sông, có thể chứa đến hơn trăm khách. Mỗi người trả tiền để bước lên ghe rồi là tự ai nấy lo, trời còn tối nên có nhiều người trải chiếu để hoàn tất giấc ngủ dở dang, kẻ đứng, người ngồi, kẻ bán, người mua… ôi thôi, đủ mọi thứ và đủ mọi loại người. Sau khi dạo lòng vòng cho biết, tôi tìm một chỗ đứng gần đầu mũi để tiện quan sát; giờ khởi hành đã đến, ghe nổ máy chuyển mình, tà tà gặm từng khúc sông quanh co. Một giờ, hai giờ rồi ba giờ sau khi ghe rời bến, tôi cũng chỉ thấy một khung cảnh : dòng sông quanh co, nhiều tảng lục bình lờ lững trôi trong dòng nước ngả màu vàng đục, hai bờ sông rợp cây cối ẩn hiện vài mái nhà lặng lẽ, thỉnh thoảng có vài điểm quang đãng trên bờ sông, là những tụ điểm chợ búa của xóm làng miền Nam. Sông không rộng, chắc chỉ hơn 200 thước, ghe lại chạy chậm, lúc ghé bờ này bỏ hàng, lúc tạt vào bờ kia đón khách nên tôi có cảm tưởng như đang đi dạo chơi trong một cái làng nhỏ chứ không có cảm giác của một chuyến đi đường dài. Hành trình hơn 10 tiếng đồng hồ trên sông đưa tôi tới thành phố tận cùng phía Nam của đất nước, bước lên bến, tôi bắt xe ôm xin tới nhà thờ theo địa chỉ gửi thư cho chị Tuyết (có phải là nhà thờ Quản Long?), đi vào khuôn viên nhà xứ tôi gặp mấy em bé đang sinh hoạt đoàn thể nên hỏi thăm và được chỉ tới nhà của mấy xơ.
Bước vào nhà, tôi vào đề ngay lập tức : « Lần đầu tiên tới Cà-mau, nhờ mấy xơ chỉ đường cho đi Cái Rắn để thăm chị Tuyết, dòng CQP ». Mấy xơ chưa hết ngỡ ngàng thắc mắc thì có một chị (không nhớ rõ tên, có phải là chị Thắm?), cùng học với chị Tuyết, bỏ việc dở dang trong bếp, chạy lên la mừng rối rít : « A, Thạch này, em chị Tuyết đó. Đi đâu tận tới đây? ». Không khí nghi ngại đã tan biến, tôi trở thành vị khách mà các xơ phải đùm bọc; lúc này tôi mới biết không dễ gì đi tới giang sơn của chị Tuyết, chỉ còn cầu may chị Tuyết có việc phải chèo xuồng ra thành phố thì mới gặp được. Trong khi chờ bữa cơm chiều, tôi ngồi nhìn mấy xơ làm bánh lễ, sau đó được mời ngủ đêm lại trên chiếc ghế bố kê thêm nơi phòng khách.
Sáng hôm sau, chị T cho biết : xuồng máy chở khách đi Cái Rắn (cách Cà-mau gần 20 cây số) đang ngưng hoạt động, chưa biết khi nào chạy trở lại. Chị T đề nghị ở lại Cà-mau chơi ít hôm để xem có liên lạc được với chị Tuyết không, và chị ấy chỉ đường để đi bộ khoảng 7 cây số tới gia đình chị ấy ở Hòa-Thành để ở đó chơi và nhờ mấy đứa em của chị ấy dẫn đi thăm nhà bác Năm (ông Phước). Rời thành phố, rảo bộ trên con đường đất dẫn đến Hòa Thành, vừa ngắm đồng nước vừa quan sát sinh hoạt của các nông dân, tôi phát giác ra được nhiều cái mới lạ : ruộng đồng miền Nam nước ngập đến ngang hông chứ không cạn như những đồng lúa mà tôi đã gặp ở Phan Rang, Phan Thiết, Nha Trang hay Ban Mê Thuột, thành ra cây mạ miền Nam cũng dài gần cả thước chứ không ngắn đụt 3 tấc như ở những vùng khác; những người đi cấy lúa đều đeo theo bên hông một cái dùi gỗ, dài hơn nửa thước, lớn bằng cổ tay mà lúc đó tôi chưa biết dùng để làm gì, sau này nhờ người giải thích tôi mới biết được công dụng của nó. (Sơn: Công dụng của nó là gì, Thạch nói thêm cho rõ đi. Hay là ra câu đố coi ai đoán trúng công dụng của cái dùi thì sẽ được anh Thạch thưởng !! Giang: Chắc cái đó dùng làm ghế ngồi nghỉ ngay giữa ruộng!? )
Tới Hòa Thành vào khoảng hơn 9 giờ sáng, tôi theo chỉ dẫn của chị T và tìm được tới nhà chị ấy không mấy khó khăn, theo lời dặn để mở lời nên được niềm nở mời vào nhà ngay, tôi bắt đầu thực sự tiếp xúc với con người và sông nước miền Nam. Sau khi trò truyện một lát thì em chị T mới dẫn tôi tới nhà bác Năm, trước sự kinh ngạc của mấy người con ông Phước đang ở trông nhà trong lúc những người khác trong gia đình đã lên đường đi làm củi, làm cá cả tuần lễ. Mấy ngày ở Hòa Thành, tôi lúc ở nhà này lúc chơi nhà kia, cho tới một buổi tối kia thì thấy chị Tuyết tới. Qua hôm sau tôi được chị Tuyết và một chị khác nữa chèo xuồng chở tôi đi Cái Rắn, quả là một vùng khỉ ho cò gáy, nghèo khổ và thiếu thốn.
Sau mấy hôm thăm Cái Rắn, tôi trở lại Hòa Thành, nơi nhà ông Phước và ở đó chờ gặp ông bà ấy theo lời đề nghị của chị Nghĩa (con ông Phước). Trở về sau hơn 1 tuần lễ rong ruổi nơi vùng Năm Căn, ông bà Phước cũng rất ngạc nhiên khi thấy tôi mò được tới tận cùng đất nước; qua nhiều thăm dò, trao đổi, cuối cùng thì mọi người cũng đi tới một thỏa hiệp hợp tác cho tương lai. Tôi từ giã Cà-mau sau 2 tuần làm quen với sông nước.
Trên đường từ Sài Gòn ra Phan Thiết, tôi ghé lại nhà chú Bích nơi cây số 18 trước khi ghé tới cha Báu để thanh toán món nợ, và còn phải quay lại cơ sở của mấy xơ dòng MTG ở Thuận Nghĩa để lấy lại cái xách hành lý của anh Sơn mà cha Báu cho xơ Lý mượn. Công việc xong xuôi, tôi trở lại Tháp Chàm để cùng Phong về nhà (hình như Phong đang chuẩn bị khăn gói đi Tuy Hòa).
Một buổi sáng sớm, hai anh em bắt xe lửa đi Nha Trang, mang thêm mấy khúc dây nho trong hành lý. Lần tới bến xe, lúc ấy vẫn còn trước nhà thờ Phước Hải, chúng tôi thấy người chờ thì đông nhưng quầy vé vẫn đóng cửa kín mít, mọi người kiên nhẫn sắp hàng chờ đợi, cùng ngồi bệt xuống đất cho khỏi mỏi chân. Thỉnh thoảng có vài em bé bán dạo lướt qua chào mời thuốc lá, kẹo cao-su, ngồi rảnh rỗi nên gặp lúc có 2 cô bé khoảng 14-15 tuổi mời mua hàng Phong bắt đầu mở miệng ghẹo, không hiểu cái giọng lai Nam của Phong hấp dẫn thế nào mà 2 cô bé cứ lượn đi lượn lại hoài. Chờ tới quá trưa thì thấy có thông báo phòng vé không mở cửa hôm đó, anh em đành rời phòng vé. Tới đây thì tôi không còn nhớ đã làm gì trong buổi chiều và đêm hôm đó, ngủ ở đâu cũng không còn ấn tượng nhưng chắc là trở lại TGM.
Ngày hôm sau anh em trở lại bến xe, lại tiếp tục sắp hàng ngồi đợi, hy vọng phòng vé mở cửa; 2 cô bé ngày hôm trước lại sà tới, thân thiện hơn và cùng ngồi luôn lại đó trò truyện, quên luôn chuyện phải đi rong bán hàng, cho mãi tới trưa, lúc quầy vé mở cửa mới chịu rời bước. Hình như vé mua được để đi ngày hôm sau nên còn phải ở lại Nha Trang thêm một đêm nữa. Không biết Phong có còn nhớ chi tiết chuyến về nhà này không, còn tôi chỉ còn nhớ mang máng. Chỉ còn nhớ hai anh em đã ra bến xe thật sớm, quán sá chưa mở cửa; sau khi rảo qua rảo lại khu vực bến xe thì có một quán bắt đầu mở cửa, anh em vào gọi 2 ly cà phê sữa, 2 phin cà phê đã nhỏ tới giọt cuối cùng mà không thấy chủ quán mang thêm nước sôi nên đành bắt đầu nhấm nháp cà phê đậm đặc trong lúc chờ chủ quán xuất hiện để xin nước sôi. Tuy có xin thêm nước sôi nhưng mãi vẫn không thấy có, 2 anh em tự hỏi uống cà phê sữa đậm đặc như vậy mới là đúng kiểu hay vì tiệm chưa kịp đun nước sôi; cả hai anh em, chưa ai từng uống một ly cà phê sữa đậm đặc như thế.
Những dây nho mang về nhà được cắt khúc, ươm vào các bịch ny-lông và có được 2, 3 khúc nẩy mầm, tôi chuẩn bị cho một kế hoạch………dang dở.
Rời Đức-minh đi Bmt và Nha-trang trong ngày, tôi ghé vào TGM Nha-trang thăm mấy đứa bạn còn tu học tại đó, buổi tối nằm ngủ trong cái nhà ngủ thênh thang nay chỉ cho dành cho một tiểu đội. Ngày hôm sau bắt xe đi Phan-rang, hình như cái xe khách nhỏ chạy bằng than vì xăng dầu khá khan hiếm trong giai đoạn này. Ghé thăm và ở lại với Phong vài ngày tại Tháp Chàm, có buổi đi vào vườn hái ổi, có ngày đạp xe đạp cùng với mấy bạn của Phong đi tắm biển và còn có đi rạp xem phim nữa. Đôi lúc nghe Phong kể toàn những chuyến ghe vượt biển không thành : nào là cả tàu bị say sóng nằm liệt rồi bị trôi vào bờ, nào là đi lạc đường lòng vòng rồi lại quay về bến cũ…
Sau mấy hôm ở Phan-rang, chặng tiếp theo là Phan-thiết; tới PT vào lúc quá trưa, ghé nơi nhà bạn ở đối diện nhà thờ Lạc Đạo, hỏi thăm giờ giấc xe lửa và được biết có chuyến tàu chợ vào lúc 9 giờ tối nên nghỉ ngơi, ăn chiều và đón xe đi Mường Mán. Xe lam chỉ đi tới cây số 7 nên phải cuốc bộ thêm 7 cây số nữa mới tới ga xe lửa Mường Mán. Tới nơi thì có tin chuyến tàu chợ bị hủy vì tàu hư, thông tin là thế mà chẳng thấy ai rục rịch tan hàng, tôi hơi thắc mắc nên lân la hỏi thăm thì biết được khoảng nửa đêm sẽ có chuyến tàu Thống Nhất từ Hà Nội vào và còn có thêm chuyến tàu chở đá vào lúc 2 giờ sáng. Thế là tôi cũng lang thang nơi nhà ga, ngấm ngầm chú ý để biết cách xoay sở khi tàu tới. Gần nửa đêm thì tàu TN tới ga, không thấy người xuống nhưng cũng chẳng có người được lên, dù có năn nỉ xin mua vé, dường như tàu chỉ dừng cho đúng thời hạn. Tàu hụ còi báo giờ chuyển bánh sau 20 phút dừng ở ga, nhìn tới nhìn lui tôi thấy có nhiều bóng người thấp thoáng, tôi cũng tiến tới gần đường xe lửa, kiếm một chỗ khuất ánh đèn điện, nấp sau một cái cột. Tàu xình xịch chuyển bánh thì, lập tức, nhiều bóng người túa ra, lần lượt nhảy lên bám vào các khoảng nối giữa hai toa tàu, tôi cũng tìm được một khoảng chỉ mới có một người bám, nhảy lên, đứng trên khúc nối, tay bám toa trước, lưng dựa toa sau. Sau khoảng 20 phút, tàu đã chạy đều, tình hình có vẻ yên ổn, người bạn cùng bám tàu rủ tôi leo lên mui đi về toa cuối kiếm chỗ nằm vì toa cuối là toa hành lý, thấp hơn những toa hành khách nên không có gió; tôi cũng mon men đi về cuối, mới thấy có đến cả mười mấy người đang trải mền trên mui toa cuối, chuẩn bị chỗ nằm một cách rất thành thuộc. Không muốn nhập bọn, tôi vượt vài toa để trở lại phía trước, kiếm một chỗ ngồi trên mui toa sau, gập mình gác trán lên mui toa trước, dùng hai cánh tay làm gối, cứ thế để chờ cho quãng đường từ từ rút ngắn.
Hành trang của tôi không có gì ngoài « bửu bối » đi đường và một bộ đồ để trong cái túi vải nhỏ tròng vào cổ, trên mình khoác cái áo pạc-đờ-suy (pardessus) của anh Sơn để lại để che đỡ mưa gió. Ngồi vừa ngủ lơ mơ vừa phải cảnh giác, suốt đêm còn phải hứng mấy cơn mưa rào, đủ lớn để làm ướt đẫm áo khoác, may là ngồi trên mui có gió quạt phần phật nên nửa giờ sau cơn mưa là quần áo lại khô ráo trở lại. Khoảng 6 giờ sáng thì tàu tới ngang Long Khánh, cảm thấy hơi dị hợm trên mui xe lửa, tôi tụt xuống đứng giữa hai toa tàu cho tới khi tàu hụ còi giảm tốc độ để từ từ tiến vào ga Bình Triệu, vào khoảng 8 giờ sáng.
Tôi nhảy xuống khỏi xe lửa trước khi đoàn tàu tiến vào phạm vi nhà ga, bên ngoài hàng rào lưới thép, để tránh bị xét vé lúc ra cổng. Vòng ra đường cái, tôi bắt xe tiếp tục con đường xuống Bến Lội. Tới nhà cậu Hải khoảng 4 giờ chiều, tôi tranh thủ lúc trời còn sáng để xem xét những gì cần thu hồi, cuối cùng thì hình như tôi không có thêm đồ đạc gì khi rời nhà cậu Hải. Ý tôi cũng chỉ muốn ghé chào cậu để báo cho cậu biết anh Sơn đã ra đi và tôi cũng sẽ không trở lại nữa. Buổi tối ngồi hút thuốc lào nói chuyện với cậu Hải, cậu lấy làm tiếc khi hai anh em đã góp phần vào gia đình cậu trong lúc khó khăn nhất, để đến lúc thấy một chút tương lai tươi sáng hơn thì không còn ở lại để hưởng. Cậu rủ rê tôi ở lại thêm vài ngày nhưng tôi nhất định chỉ tới rồi đi nên cậu cháu cùng bảo nhau lên giường nhắm mắt vài tiếng cho có sức. Chẳng ai có đồng hồ, tôi dự đoán : trăng 17 sẽ treo ở đỉnh đầu vào khoảng 2 giờ sáng, là giờ tôi cần phải ra đi cho kịp chuyến xe. Sau vài tiếng đồng hồ ngủ chập chờn, tôi giật mình thức giấc lúc trăng vừa lên giữa đỉnh đầu, nhẹ nhàng bước xuống nhưng cũng làm cậu Hải thức giấc, tôi từ giã cậu, trở bước lần cuối cùng trên con đường cát 4 cây số ngoằn ngoèo dẫn ra Thị Tính, giữa những bụi cỏ cao còn đẫm sương. (Sơn : Anh có cơ duyên được quen biết và gần gũi với các cậu nhiều hơn chị Tuyết và các em. Với cậu Trực thì đã đành, vì cậu Trực ở ngay trong nhà, nhưng với cậu Hải và cậu Phan, anh cũng có nhiều kỷ niệm thân quen, có lẽ do hoàn cảnh, do lứa tuổi, hay do tính cách thân thiện và thích làm quen của anh. Anh với cậu Hải có nhiều thân tình. Lần đầu cậu ghé thăm, đó là vào khoảng 1960, cậu vừa mới lớn, như cháu Minh Kha nhà mình bây giờ vậy, cao dong dỏng, mặc quần áo đơn sơ. Đó là lần đầu tiên anh gặp cậu. Hai cậu cháu bắt đầu làm quen với nhau. Kỷ niệm vui vui, đó là sau khi chào hỏi cha mẹ xong thì cậu mới hỏi anh : « Sơn có muốn ăn kẹo không ». Trời, kẹo mà đứa con nít nào lại không thèm. Anh liền nhanh nhẩu trả lời rằng « cháu thích ăn, mà có 1 loại kẹo ngon lắm, có bán ngoài hàng của ông bà Lịch, kêu bằng kẹo dứa (kẹo có mùi trái thơm). Cậu muốn ăn thử không ? Cháu dẫn cậu đi mua ». Lúc đó nhà mình còn ở căn nhà phía sau, chưa dời ra phía ngoài đường cái. Từ lúc biết đi mua kẹo cho tới khi đó, chưa bao giờ anh có tiền mua một lần nhiều kẹo dứa như vậy. Cậu mua cho anh không biết bao nhiêu tiền mà được một nắm kẹo thiệt bự, bỏ đầy 2 túi, cầm đầy trong tay mà vẫn còn dư. Anh thích quá, ăn liền tù tì gần chục cái, nhưng còn dư không biết cất đâu, anh bèn dấu nó trong hốc kẹt, ngoài thềm sau cửa nhà. Mua kẹo buổi trưa, chiều ra tìm kẹo thì thấy kiến bu một đống ! Lần thứ hai cậu ghé thăm thì nhà mình đã dọn ra phía trước đường cái, ngay trước mặt lao xá. Khi đó anh đang đi học lớp nhất tại Ba Làng (Thanh Hải). Lần này cậu đã thành một người thanh niên chững chạc, đầu chải bóng láng, mặc áo sơmi bỏ vô quần, đi giày, xức dầu thơm. Cũng trong lần ghé thăm thứ hai này mà cậu đã dẫn anh đi uống cafe trên tỉnh. Uống xong, định ra đón xe lam về, nhưng chiều tối đâu còn xe nữa, cậu cháu đành phải lon ton đi bộ về.
Cậu Hải rất quý mến cha mẹ, và đặc biệt là rất cảm phục tính cách của cha. Cậu rất khéo tay và giỏi về nhiều nghề. Thời gian ở Bến Lội hơn 6 tháng với cậu, chia sẻ gian khổ với nhau đã cho anh thấy nơi cậu hình ảnh của một người quân tử “tiết trực tâm hư” luôn giữ lòng yêu mến dịu dàng với vợ con, với cháu cũng như với mọi người.)
Tới thị xã Thủ Dầu Một vào khoảng giữa buổi sáng, tôi ghé cừa hàng ăn uống kêu một dĩa thịt bò xào và một chai bia lớn (hiếm lắm mới thấy có cửa hàng ăn uống bán bia vào thời điểm này), ngồi nhâm nhi tính toán quãng đường tiếp theo. Theo lẽ thì tôi trở lại PT, ghé cha Báu trả món nợ là có thể xuôi đường về nhà vì công tác hoàn tất nhưng tôi vẫn còn tiếc những ngày rong ruổi, có thể đây là chuyến đi xa cuối cùng trước khi về chôn chân nơi xóm làng Đức Minh. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu : sao không nhân cơ hội ghé thăm chị Tuyết, chị ở Cà Mau nhưng chưa bao giờ biết nơi đó ra sao.
Về tới SG, không còn nhớ đã qua đêm tại đâu nhưng chỉ còn nhớ đã đi mua vé xe đi Cần-thơ cho ngày hôm sau và có ghé qua khu Tân-định thăm Thảo (con ông bà Thư), đang đi học may ở SG. Chẳng biết mô tê gì về đường xuống Cà-mau nhưng, như mẹ thường nói : « đường nằm nơi lỗ miệng », tôi mạnh dạn đáp xe xuống Cần-thơ, ghé tới nhà thờ Cần-thơ, nơi anh Sơn đã dẫn tôi tới một năm trước đó, gặp chị Chín và hỏi thăm đường đi nước bước để đi tìm chị Tuyết, trong khi trong tay chỉ có vỏn vẹn cái địa chỉ để gửi thư. Chị Chín đi tìm chị Tơ để hỏi thăm dùm tôi nhưng chị Tơ cũng chẳng biết làm sao để đi Cái Rắn, chỉ cho biết đi Cà-mau có thể đi xe hoặc đi tàu và khuyên nên đi tàu vì tuy tốn thời giờ nhưng rẻ tiền hơn. Tôi có dư thì giờ và cũng muốn đi tàu cho biết nên quyết định sẽ đi Cà-mau bằng tàu, chị Tơ hẹn sáng sớm hôm sau sẽ tới đưa tôi ra bến Ninh Kiều.
Tàu từ Cần-thơ đi Cà-mau là loại ghe bầu đi trên sông, có thể chứa đến hơn trăm khách. Mỗi người trả tiền để bước lên ghe rồi là tự ai nấy lo, trời còn tối nên có nhiều người trải chiếu để hoàn tất giấc ngủ dở dang, kẻ đứng, người ngồi, kẻ bán, người mua… ôi thôi, đủ mọi thứ và đủ mọi loại người. Sau khi dạo lòng vòng cho biết, tôi tìm một chỗ đứng gần đầu mũi để tiện quan sát; giờ khởi hành đã đến, ghe nổ máy chuyển mình, tà tà gặm từng khúc sông quanh co. Một giờ, hai giờ rồi ba giờ sau khi ghe rời bến, tôi cũng chỉ thấy một khung cảnh : dòng sông quanh co, nhiều tảng lục bình lờ lững trôi trong dòng nước ngả màu vàng đục, hai bờ sông rợp cây cối ẩn hiện vài mái nhà lặng lẽ, thỉnh thoảng có vài điểm quang đãng trên bờ sông, là những tụ điểm chợ búa của xóm làng miền Nam. Sông không rộng, chắc chỉ hơn 200 thước, ghe lại chạy chậm, lúc ghé bờ này bỏ hàng, lúc tạt vào bờ kia đón khách nên tôi có cảm tưởng như đang đi dạo chơi trong một cái làng nhỏ chứ không có cảm giác của một chuyến đi đường dài. Hành trình hơn 10 tiếng đồng hồ trên sông đưa tôi tới thành phố tận cùng phía Nam của đất nước, bước lên bến, tôi bắt xe ôm xin tới nhà thờ theo địa chỉ gửi thư cho chị Tuyết (có phải là nhà thờ Quản Long?), đi vào khuôn viên nhà xứ tôi gặp mấy em bé đang sinh hoạt đoàn thể nên hỏi thăm và được chỉ tới nhà của mấy xơ.
Bước vào nhà, tôi vào đề ngay lập tức : « Lần đầu tiên tới Cà-mau, nhờ mấy xơ chỉ đường cho đi Cái Rắn để thăm chị Tuyết, dòng CQP ». Mấy xơ chưa hết ngỡ ngàng thắc mắc thì có một chị (không nhớ rõ tên, có phải là chị Thắm?), cùng học với chị Tuyết, bỏ việc dở dang trong bếp, chạy lên la mừng rối rít : « A, Thạch này, em chị Tuyết đó. Đi đâu tận tới đây? ». Không khí nghi ngại đã tan biến, tôi trở thành vị khách mà các xơ phải đùm bọc; lúc này tôi mới biết không dễ gì đi tới giang sơn của chị Tuyết, chỉ còn cầu may chị Tuyết có việc phải chèo xuồng ra thành phố thì mới gặp được. Trong khi chờ bữa cơm chiều, tôi ngồi nhìn mấy xơ làm bánh lễ, sau đó được mời ngủ đêm lại trên chiếc ghế bố kê thêm nơi phòng khách.
Sáng hôm sau, chị T cho biết : xuồng máy chở khách đi Cái Rắn (cách Cà-mau gần 20 cây số) đang ngưng hoạt động, chưa biết khi nào chạy trở lại. Chị T đề nghị ở lại Cà-mau chơi ít hôm để xem có liên lạc được với chị Tuyết không, và chị ấy chỉ đường để đi bộ khoảng 7 cây số tới gia đình chị ấy ở Hòa-Thành để ở đó chơi và nhờ mấy đứa em của chị ấy dẫn đi thăm nhà bác Năm (ông Phước). Rời thành phố, rảo bộ trên con đường đất dẫn đến Hòa Thành, vừa ngắm đồng nước vừa quan sát sinh hoạt của các nông dân, tôi phát giác ra được nhiều cái mới lạ : ruộng đồng miền Nam nước ngập đến ngang hông chứ không cạn như những đồng lúa mà tôi đã gặp ở Phan Rang, Phan Thiết, Nha Trang hay Ban Mê Thuột, thành ra cây mạ miền Nam cũng dài gần cả thước chứ không ngắn đụt 3 tấc như ở những vùng khác; những người đi cấy lúa đều đeo theo bên hông một cái dùi gỗ, dài hơn nửa thước, lớn bằng cổ tay mà lúc đó tôi chưa biết dùng để làm gì, sau này nhờ người giải thích tôi mới biết được công dụng của nó. (Sơn: Công dụng của nó là gì, Thạch nói thêm cho rõ đi. Hay là ra câu đố coi ai đoán trúng công dụng của cái dùi thì sẽ được anh Thạch thưởng !! Giang: Chắc cái đó dùng làm ghế ngồi nghỉ ngay giữa ruộng!? )
Tới Hòa Thành vào khoảng hơn 9 giờ sáng, tôi theo chỉ dẫn của chị T và tìm được tới nhà chị ấy không mấy khó khăn, theo lời dặn để mở lời nên được niềm nở mời vào nhà ngay, tôi bắt đầu thực sự tiếp xúc với con người và sông nước miền Nam. Sau khi trò truyện một lát thì em chị T mới dẫn tôi tới nhà bác Năm, trước sự kinh ngạc của mấy người con ông Phước đang ở trông nhà trong lúc những người khác trong gia đình đã lên đường đi làm củi, làm cá cả tuần lễ. Mấy ngày ở Hòa Thành, tôi lúc ở nhà này lúc chơi nhà kia, cho tới một buổi tối kia thì thấy chị Tuyết tới. Qua hôm sau tôi được chị Tuyết và một chị khác nữa chèo xuồng chở tôi đi Cái Rắn, quả là một vùng khỉ ho cò gáy, nghèo khổ và thiếu thốn.
Sau mấy hôm thăm Cái Rắn, tôi trở lại Hòa Thành, nơi nhà ông Phước và ở đó chờ gặp ông bà ấy theo lời đề nghị của chị Nghĩa (con ông Phước). Trở về sau hơn 1 tuần lễ rong ruổi nơi vùng Năm Căn, ông bà Phước cũng rất ngạc nhiên khi thấy tôi mò được tới tận cùng đất nước; qua nhiều thăm dò, trao đổi, cuối cùng thì mọi người cũng đi tới một thỏa hiệp hợp tác cho tương lai. Tôi từ giã Cà-mau sau 2 tuần làm quen với sông nước.
Trên đường từ Sài Gòn ra Phan Thiết, tôi ghé lại nhà chú Bích nơi cây số 18 trước khi ghé tới cha Báu để thanh toán món nợ, và còn phải quay lại cơ sở của mấy xơ dòng MTG ở Thuận Nghĩa để lấy lại cái xách hành lý của anh Sơn mà cha Báu cho xơ Lý mượn. Công việc xong xuôi, tôi trở lại Tháp Chàm để cùng Phong về nhà (hình như Phong đang chuẩn bị khăn gói đi Tuy Hòa).
Một buổi sáng sớm, hai anh em bắt xe lửa đi Nha Trang, mang thêm mấy khúc dây nho trong hành lý. Lần tới bến xe, lúc ấy vẫn còn trước nhà thờ Phước Hải, chúng tôi thấy người chờ thì đông nhưng quầy vé vẫn đóng cửa kín mít, mọi người kiên nhẫn sắp hàng chờ đợi, cùng ngồi bệt xuống đất cho khỏi mỏi chân. Thỉnh thoảng có vài em bé bán dạo lướt qua chào mời thuốc lá, kẹo cao-su, ngồi rảnh rỗi nên gặp lúc có 2 cô bé khoảng 14-15 tuổi mời mua hàng Phong bắt đầu mở miệng ghẹo, không hiểu cái giọng lai Nam của Phong hấp dẫn thế nào mà 2 cô bé cứ lượn đi lượn lại hoài. Chờ tới quá trưa thì thấy có thông báo phòng vé không mở cửa hôm đó, anh em đành rời phòng vé. Tới đây thì tôi không còn nhớ đã làm gì trong buổi chiều và đêm hôm đó, ngủ ở đâu cũng không còn ấn tượng nhưng chắc là trở lại TGM.
Ngày hôm sau anh em trở lại bến xe, lại tiếp tục sắp hàng ngồi đợi, hy vọng phòng vé mở cửa; 2 cô bé ngày hôm trước lại sà tới, thân thiện hơn và cùng ngồi luôn lại đó trò truyện, quên luôn chuyện phải đi rong bán hàng, cho mãi tới trưa, lúc quầy vé mở cửa mới chịu rời bước. Hình như vé mua được để đi ngày hôm sau nên còn phải ở lại Nha Trang thêm một đêm nữa. Không biết Phong có còn nhớ chi tiết chuyến về nhà này không, còn tôi chỉ còn nhớ mang máng. Chỉ còn nhớ hai anh em đã ra bến xe thật sớm, quán sá chưa mở cửa; sau khi rảo qua rảo lại khu vực bến xe thì có một quán bắt đầu mở cửa, anh em vào gọi 2 ly cà phê sữa, 2 phin cà phê đã nhỏ tới giọt cuối cùng mà không thấy chủ quán mang thêm nước sôi nên đành bắt đầu nhấm nháp cà phê đậm đặc trong lúc chờ chủ quán xuất hiện để xin nước sôi. Tuy có xin thêm nước sôi nhưng mãi vẫn không thấy có, 2 anh em tự hỏi uống cà phê sữa đậm đặc như vậy mới là đúng kiểu hay vì tiệm chưa kịp đun nước sôi; cả hai anh em, chưa ai từng uống một ly cà phê sữa đậm đặc như thế.
Những dây nho mang về nhà được cắt khúc, ươm vào các bịch ny-lông và có được 2, 3 khúc nẩy mầm, tôi chuẩn bị cho một kế hoạch………dang dở.
Kỷ niệm Gia Kiệm
Cậu đúng là người bà con thân cận và gần gũi duy nhất của gia đình mình. Nhận xét và đánh giá về con người cậu, mọi ý kiến và kết luận em thấy thật đầy đủ. Tuy nhiên, có một khía cạnh chúng ta chưa quan tâm lắm, đó là hoàn cảnh cuộc sống của cậu. Nếu đem so sánh với chúng ta mới thấy cậu thiệt thòi thiếu thốn thật nhiều. Song cuối cùng, cậu cũng trở thành một người tốt với những giá trị thực nhân bản.
Cậu với riêng em cũng như với mọi thành viên tronh gia đình, luôn có nhiều kỷ niệm, dẫu đau buồn sướng khổ thế nào chăng nữa thì những kỷ niệm ấy cũng là một "phần" của đời mình, không thể tách rời được nữa.
Sau một lần mâu thuẫn sâu sắc mà đỉnh điểm là em xin phép cha mẹ từ nay không gặp và không gọi ông ấy bằng cậu nữa, em suy nghĩ thật nhiều ... và nhận ra được mấu chốt của vấn đề. Em đã xuống Gia kiệm thăm và xin lỗi cậu, ôm nhau khóc cho tan chảy muộn phiền còn vây kín tâm tư.
Cổ nhân có bảo "nhân vô thập toàn", em nghĩ cậu chúng ta dẫu sao cũng đáng trân trọng, học hỏi, hiểu và cảm thông.
Với em, cậu là người đáng thương, đáng kính và nhất là rất đáng cảm phục vì đã khắc phục nghịch cảnh để vươn lên.
Cậu với riêng em cũng như với mọi thành viên tronh gia đình, luôn có nhiều kỷ niệm, dẫu đau buồn sướng khổ thế nào chăng nữa thì những kỷ niệm ấy cũng là một "phần" của đời mình, không thể tách rời được nữa.
Sau một lần mâu thuẫn sâu sắc mà đỉnh điểm là em xin phép cha mẹ từ nay không gặp và không gọi ông ấy bằng cậu nữa, em suy nghĩ thật nhiều ... và nhận ra được mấu chốt của vấn đề. Em đã xuống Gia kiệm thăm và xin lỗi cậu, ôm nhau khóc cho tan chảy muộn phiền còn vây kín tâm tư.
Cổ nhân có bảo "nhân vô thập toàn", em nghĩ cậu chúng ta dẫu sao cũng đáng trân trọng, học hỏi, hiểu và cảm thông.
Với em, cậu là người đáng thương, đáng kính và nhất là rất đáng cảm phục vì đã khắc phục nghịch cảnh để vươn lên.
Củ khoai sắn ươm tình cha
Trên vùng đất đỏ Buôn mê chị còn nhớ một kỷ niệm với cha liên quan đến củ khoai sắn, miền nam gọi là khoai mì. Ngày xưa thực phẩm chưa có nhiều hàng đống như bây giờ. Ít, nên ăn cái gì cũng cảm thấy ngon cả. Hơn nữa lúc còn trẻ ăn rất ngon miệng. Chị nhớ vẫn thích ăn củ khoai mì. Luộc chín với một chút muối, ăn bùi bùi thơm thơm! Trong miền Nam, người ta luộc hoặc hấp nó với nước cốt dừa, còn ngon hơn nữa.
Đặc biệt ở trong nhà Dòng, các sơ nhà bếp làm món tráng miệng với khoai mì như sau. Khoai mì luộc chín, xắt ra từng miếng nhỏ rồi trộn chung với đường cát và dừa nạo. Món ăn được chế biến đơn giản như vậy đó nhưng ngon vô cùng. Vừa ngọt vừa béo vừa thơm. Chị còn nhớ rõ lúc ở nhà Tập, chia nhau ăn hết phần mà vẫn chưa đã thèm.
Lần ấy chị về thăm nhà, lúc gia đình mình còn ở cây đa số 5 trên Buônmêthuột. Mẹ trồng trọt đủ thứ, bắp có, đậu phộng có, đậu xanh có, nhưng không trồng khoai mì. Cha biết chị thích ăn khoai mì nên một bữa nọ, chiều chiều, cha rủ chị đi đào khoai. Cha xách cuốc xẻng theo và chỉ cho chị một bụi khoai mì mọc hoang nơi một góc bờ rào trong rẫy. Bụi khoai đã già khá lâu năm nhưng rất èo ọt vì mọc chen chúc trong bờ rào. Rễ đâm sâu xuống trên đất đá vừa cứng vừa khô nên hai cha con hì hục đào vất vả, mướt cả mồ hôi mà rốt cuộc chỉ được có vài củ cà tong cà teo và chai cứng !
Vậy mà khoai vẫn ngon và thơm vì không phải trộn với dừa và đường cát mà là ướp tình Cha !!!
Đặc biệt ở trong nhà Dòng, các sơ nhà bếp làm món tráng miệng với khoai mì như sau. Khoai mì luộc chín, xắt ra từng miếng nhỏ rồi trộn chung với đường cát và dừa nạo. Món ăn được chế biến đơn giản như vậy đó nhưng ngon vô cùng. Vừa ngọt vừa béo vừa thơm. Chị còn nhớ rõ lúc ở nhà Tập, chia nhau ăn hết phần mà vẫn chưa đã thèm.
Lần ấy chị về thăm nhà, lúc gia đình mình còn ở cây đa số 5 trên Buônmêthuột. Mẹ trồng trọt đủ thứ, bắp có, đậu phộng có, đậu xanh có, nhưng không trồng khoai mì. Cha biết chị thích ăn khoai mì nên một bữa nọ, chiều chiều, cha rủ chị đi đào khoai. Cha xách cuốc xẻng theo và chỉ cho chị một bụi khoai mì mọc hoang nơi một góc bờ rào trong rẫy. Bụi khoai đã già khá lâu năm nhưng rất èo ọt vì mọc chen chúc trong bờ rào. Rễ đâm sâu xuống trên đất đá vừa cứng vừa khô nên hai cha con hì hục đào vất vả, mướt cả mồ hôi mà rốt cuộc chỉ được có vài củ cà tong cà teo và chai cứng !
Vậy mà khoai vẫn ngon và thơm vì không phải trộn với dừa và đường cát mà là ướp tình Cha !!!
Tin vịt
Hình như trong thời gian cha đi tu nghiệp mấy tháng ở Vũng Tàu, một sáng kia, có hai người bận quân phục ghé qua nhà, hỏi mẹ có phải đây là nhà ông Phan Văn Trực và báo tin ông Trực đã tử thương.
Mẹ bán tin bán nghi nhưng 2 người mang thông điệp tới cũng không thể cung cấp thêm tin tức gì rồi từ giã. Mẹ không biết phải làm sao, tuy đưa ra lập luận chuyện không thể nào có vì tên tuổi không chính xác nhưng mẹ cũng không thể nào yên tâm.
Tôi còn nhớ mẹ bàng hoàng, không còn làm được việc gì, chỉ nằm trên võng khóc suốt cả buổi. Không biết nhờ đâu, và tới khi nào thì mẹ biết được là tin báo không chính xác.
Mẹ bán tin bán nghi nhưng 2 người mang thông điệp tới cũng không thể cung cấp thêm tin tức gì rồi từ giã. Mẹ không biết phải làm sao, tuy đưa ra lập luận chuyện không thể nào có vì tên tuổi không chính xác nhưng mẹ cũng không thể nào yên tâm.
Tôi còn nhớ mẹ bàng hoàng, không còn làm được việc gì, chỉ nằm trên võng khóc suốt cả buổi. Không biết nhờ đâu, và tới khi nào thì mẹ biết được là tin báo không chính xác.
3/5/10
Hồi ký Nguyễn Hiến Lê (1)
Lời nhà xuất bản trong mấy trang đầu của cuốn Hồi kí Nguyễn Hiến Lê do Nhà xuất bản Văn học, Thành phố Hồ Chí Minh tái bản lần thứ sáu, năm 2006, có viết như sau:
“Ngòi bút của Nguyễn Hiến Lê, tâm hồn và con tim Nguyễn Hiến Lê ngay từ đầu đã thuộc về nhân dân, những người lao động, những ai cực khổ, bần hàn và bất hạnh. Niềm tự hào về dòng giống, tổ tiên và nỗi đau về dân tộc trước những cuộc ngoại xâm đã kéo Nguyễn Hiến Lê, một nhà văn luôn ý thức lánh xa những gì phù phiếm như chức tước, địa vị và sự giàu sang không lương thiện xích gần với Cách mạng và tự coi mình là người của Cách mạng, bởi lẽ dễ hiểu, những điều Cách mạng đang làm cũng chính là mơ ước của ông.”
Sau khi khẳng định nhân cách của người cầm bút và tấm lòng của ông Nguyễn Hiến Lê đối với đất nước, Nhà xuất bản Văn học, một cơ quan văn hoá chính thức của nhà nước Việt Nam, giới thiệu cuốn sách này như sau:
“Trên tinh thần tôn trọng một học giả nghiêm túc và được nhiều người mến mộ, kính nể ấy, Nhà xuất bản Văn học trân trọng giới thiệu cuốn hồi kí của ông. Tuy là hồi kí một người, một nhà văn, nhưng qua đấy người đọc cảm nhận được xã hội Việt Nam xuyên suốt hai cuộc kháng chiến chống xâm lược mà nét hào hùng lẫn những vệt máu và nước mắt vẫn còn thấm đẫm mới rọi trên từng trang sử của dân tộc chúng ta. Từng sự kiện, từng con người (từ nhà chính khách cho đến nhà văn…) đều được cách nhìn Nguyễn Hiến Lê soi rọi và đánh giá.”
Và như thế, cuốn Hồi kí Nguyễn Hiến Lê đã được in tới sáu lần, đủ cho ta thấy sự hưởng ứng của độc giả và ảnh hưởng của nó tới độc giả trong nước như thế nào. Nhưng sau tất cả những lần tái bản, cho tới bản gần đây nhất, năm 2006, cuốn sách đều không được in lại một cách đầy đủ, có nhiều phần đã bị tỉa bớt mà theo Nhà xuất bản Văn học thì:
“Vì tác giả đã mất, Nhà xuất bản không thể cắt bỏ nhiều quá. Trong quá trình biên tập, chúng tôi chỉ lược bớt phần rườm rà và cắt những chỗ không thể nào để lại được. Chúng tôi mong bạn đọc thông cảm.”
Câu này làm độc giả không khỏi thắc mắc: nếu ông Nguyễn Hiến Lê còn sống, cuốn sách của ông có lẽ còn bị cắt bỏ nhiều hơn, thậm chí còn không được xuất bản (mà quả thật là vậy, ông mất năm 1984, vậy mà tới năm 1992 Hồi kí Nguyễn Hiến Lê mới được xuất bản lần đầu tiên trong nước). Tuy người đọc rất “thông cảm” với Nhà xuất bản Văn học, nhưng trong suốt 14 năm, sau 6 lần in, người ta phải tự đặt câu hỏi là: ông Nguyễn Hiến Lê, một học giả rất được trọng vọng ở Việt Nam, đã tâm sự những gì trong quãng đời cuối cùng của ông khiến cho cuốn sách của ông được xuất bản muộn màng và bị kiểm duyệt như vậy. Lời bạt của cuốn sách có nói: “Một lần nữa, chúng tôi tin rằng, xuất bản tập Hồi kí này là hết sức cần thiết, và rất bổ ích, nhưng chúng tôi cũng nghĩ rằng sẽ có những vấn đề cần phải tranh luận”. Vậy thì phải chăng những đoạn cắt bỏ đó - “những chỗ không thể nào để lại được” - là những vấn đề “cần phải được tranh luận”? Dù rằng “xét trên cảm hứng chung của ngòi bút Nguyễn Hiến Lê, chúng tôi vẫn thấy trước tiên đây là một học giả đầy trách nhiệm và xây dựng” như Nhà xuất bản đã nhận xét?
Phần “Mục lục” của cuốn Hồi kí Nguyễn Hiến Lê cho thấy cuốn sách gồm có 6 phần, chia làm 33 chương, những phần bị bỏ đi là chương XXI, XXII, XXIV (trong Phần IV), và chương XXX, XXXI, XXXII (trong Phần VI) mà nhà xuất bản bỏ trống không in, với một lời ghi chú vỏn vẹn là “xin để lại sau một thời gian nữa…”. Những chương này đã nói những gì khiến cho Nhà xuất bản Văn học (hay nói đúng hơn, nhà nước Việt Nam) phải giấu nhẹm, bưng bít hơn 23 năm sau khi ông Nguyễn Hiến Lê mất?
Câu trả lời được tìm thấy trong cuốn Hồi kí do nhà Văn nghệ - California – USA xuất bản năm 1988, in đủ 33 chương. Cuốn Hồi kí này đã được xuất bản hai năm sau khi ông Nguyễn Hiến Lê mất, toàn bộ được in làm ba tập, Tập I, II, III, và một phần trong cuốn Đời viết văn của tôi (Văn nghệ, 1986). Theo bản in cuốn Hồi kí của nhà Văn nghệ thì chương XXI, XXII, XXIV trong Phần IV – Nam Bắc chia hai - Chiến tranh Việt Mĩ gồm những tiết sau:
Chương XXI - Việt Nam chia hai (1954-1965)
A. Miền Nam
Gia đình Ngô Đình Diệm
Dẹp giáo phái - Truất Bảo Đại
Chính sách nhà Ngô
Dân nổi dậy chống đối - Hai vụ 11-11-60 và 26-2-62
Ấp chiến lược - Trận Ấp Bắc
Phật nạn - Đảo chánh 1-11-63
B. Miền Bắc
Pháp mất hết quyền lợi
Kinh tế suy - Đời sống khắc khổ
Cải cách điền địa - Vụ Quỳnh Lưu
Vụ Nhân văn - Giai phẩm
Kinh tế phát triển rất chậm
Bắc giúp Mặt trận Giải phóng miền Nam
Chương XXII - Chiến tranh Việt Mỹ (1965-1975)
Các chính phủ quân nhân
Mĩ đưa quân sang
Vụ Mậu Thân
Vừa đánh vừa đàm - Hiệp định Paris
Những bí mật trong chiến tranh Việt Mỹ
Mĩ rút về, quân Nam tan rã, chiến tranh chấm dứt
Chương XXIV - Xã hội miền Nam trong thời Mỹ
Kinh tế mền Nam từ 1954 đến 1974
Nhân số bộc phát - Nạn đói
Thị dân tăng lên quá mau - Nền kinh tế trái luật kinh tế
Sản xuất kém mà tiêu thụ mạnh
Đời sống quay cuồng
Cảm giác bất an - Thời đại kĩ nghệ điện tử
Phong hoá suy đồi
Ta có thể thấy ngay là những điều mà Nguyễn Hiến Lê viết về hai miền Nam, Bắc trong Chương XXI, vụ Mậu Thân, bí mật trong chiến tranh Việt - Mĩ trong Chương XXII, kinh tế, thời đại kĩ nghệ điện tử ở miền Nam trong Chương XXIV có thể là những điều sẽ làm cho nhà nước Việt Nam phải lúng túng bào chữa, lấp liếm nếu nó được in ra.
Nhưng có lẽ cái gai làm cho các nhà quản lý tư tưởng Việt Nam khó chịu nhất là những gì ông Nguyễn Hiến Lê đã viết trong Chương XXX, XXXI, và XXXII, trong Phần VI – Giai đoạn 1975-1981: Chương XXX tả lại đời sống xã hội miền Nam sau 6 năm dưới chế độ xã hội chủ nghĩa; chương XXXI viết lại những kết quả sau 6 năm đó; Chương XXXII tập hợp những ý kiến của ông về lỗi lầm của Đảng và về tương lai của đất nước.
Câu cuối cùng trong lời bạt của Nhà xuất bản Văn học có viết: “Nhà xuất bản rất mong sự đóng góp của độc giả trong nước cũng như ngoài nước để lần in sau chúng tôi rút được những kinh nghiệm tốt hơn.” Chẳng lẽ những đóng góp này chỉ là những ý kiến về kĩ thuật ấn loát hoặc trang trí hình bìa? Vì theo nhà Văn học thì “qua đấy (cuốn Hồi kí) người đọc cảm nhận được xã hội Việt Nam xuyên suốt hai cuộc kháng chiến”, vậy thì độc giả, nhất là độc giả trong nước, có thể nên lên một băn khoăn là: Dù chúng tôi thông cảm cho nhà xuất bản đã cắt bỏ những chương quan trọng trên trong tất cả những lần tái bản, nhưng chúng tôi, với tấm lòng ngưỡng mộ một vị học giả quá cố, vẫn không khỏi thắc mắc tự hỏi ông Nguyễn Hiến Lê đã nhận xét những gì về xã hội Việt Nam sau cuộc kháng chiến chống Pháp, Mĩ. Đến bao giờ chúng tôi mới đọc được toàn bộ cuốn Hồi kí của ông? Đã 16 năm rồi chứ đâu phải là ít?
Trong tinh thần tự do công luận đó, tôi xin trích ra sau đây chương XXX, XXXI, XXXII trong cuốn Hồi kí của học giả Nguyễn Hiến Lê. Có lẽ lý tưởng nhất là đăng nguyên văn những chương này, không thiếu sót một câu, một chữ, do Nhà xuất bản Văn nghệ in năm 1988; nhưng ba chương này rất dài, chiếm hơn ba phần tư (160 trang) cuốn Hồi kí, Tập III, tức là gần một phần năm của toàn bộ cuốn Hồi kí dầy non một ngàn trang. Mục đích của tôi là tóm tắt, thu gom lại những ý tưởng, câu viết của ông trong ba chương đã bị cắt bỏ trên thành một bài đọc ngắn để độc giả có thể biết ngay được tâm tư, trăn trở của ông sau 6 năm sống dưới chế độ cộng sản.
Tôi sẽ giữ đúng bố cục mà ông đã dàn trong ba chương này, và theo sát những ý tưởng, diễn biến trong cách viết của ông. Tôi cũng xin mạn phép thỉnh thoảng xen vào vài ý kiến cá nhân phụ thuộc, phần lớn là để cập nhật tình trạng xã hội Việt Nam mà, sau hơn 25 năm, đã có nhiều thay đổi.
*
Hồi kí của Nguyễn Hiến Lê
(Văn nghệ xuất bản – California - USA, 1988)
Phần VI- Giai đoạn 1975 -1981
Chương XXX - Chế độ tập thể ở miền Nam
Cảm tình của tôi với kháng chiến
Mở đầu chương này, Nguyễn Hiến Lê bộc lộ tâm sự của ông trước năm 1975:
Tôi vốn có cảm tình với Việt Minh, với cộng sản; ghét thực dân Pháp, Mĩ, nhất là từ 1965 khi Mĩ đổ quân ào ạt vào miền Nam; tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mĩ. Tôi phục tinh thần hi sinh, có kỉ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có thể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp.
Nhưng cảm tình của ông với cộng sản Việt Nam không phải là tuyệt đối; ngay từ đầu, ông đã nhận ra sự tàn nhẫn của chế độ cộng sản:
Từ năm 1954 tôi đã được đọc nhiều báo tố cộng của chính phủ Ngô Đình Diệm; hơn nữa, tôi được nhiều bạn của tôi di cư vô Sài Gòn kể cho tôi nghe chính sách điền địa ở Bắc tàn nhẫn tới mức bỏ tù, giết cả những người kháng chiến, chỉ vì họ có 4-5 mẫu ruộng (chưa đầy hai hecta) và bị liệt vào hạng điền chủ, tư sản bóc lột kẻ nghèo. Chính những bạn tôi đó cũng đã giúp kháng chiến, đều có lòng ái quốc, đều là những người đứng đắn, tốt, mà không thể sống ở ngoài đó được, phải bỏ cả mồ mả tổ tiên, nhà cửa, bà con họ hàng vô đây với hai bàn tay trắng, sống chen chúc trong những khu lao động, can đảm lập lại cuộc đời.
Sau đó, với những diễn biến của chiến tranh, lòng ông càng trở nên đau thương trước tình cảnh chém giết tanh máu cùng bộ máy hỗ trợ cho cuộc huynh đệ tương tàn đó. Điển hình là:
Năm 1968, nghe những tin tức và những hình ảnh về cuộc tàn sát rùng rợn ở Huế trong biến cố Mậu Thân, tôi hoang mang, đau lòng cho đồng bào Huế và lo lắng cho tương lai dân tộc.
Nhưng ông vẫn tin tưởng vào cái ảo nhoáng bề ngoài của Đảng Cộng sản Việt Nam, được sơn phết bởi những chiến thắng trong thời kháng chiến, mà công lao đó, thực ra, không phải chỉ riêng của ông Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đọc trước sau khoảng hai chục cuốn viết về cộng sản Nga, Trung Hoa, Đông Âu như vậy, tôi tuy ghét, tởm Staline, Mao Trạch Đông… nhưng vẫn tin rằng chế độ cộng sản công bằng hơn chế độ tư bản; nhất là cộng sản Bắc Việt dưới sự lãnh đạo thời kháng chiến của Hồ Chủ tịch mà tám chín phần mười người Việt kính mến, khắp thế giới phục thì không thể nào tàn nhẫn như Nga, Trung Hoa được, Đảng có lỗi lầm thì sửa sai ngay. Đó là tâm lí chung của đa số trí thức Sài Gòn, chứ chẳng riêng của tôi.
Và vì thế, ngay từ năm 1973, ông đã mong đợi một đời sống mới:
Khi Hội nghị Paris kết thúc năm 1973, chúng tôi mừng rằng chiến tranh sắp chấm dứt sau non ba chục năm dai dẳng, khốc liệt, toàn dân sẽ nắm tay nhau kiến thiết quốc gia… Riêng tôi, tôi sẵn sàng bỏ một ít tự do đi, sống thanh bạch hơn nữa, miễn là hết thấy cái nạn tham nhũng, ăn cắp, ăn cướp, phè phỡn, bóc lột và thấy con người có tư cách hơn. Tôi vẫn thường nói với nhà tôi: cộng sản vào đây thì chỉ nội 48 giờ là hết cái tệ đó.
Ngày 30-4-75 - Việt Nam thống nhất
Sự tráo trở của cộng sản Việt Nam sau Hiệp định Paris:
Nhưng Hiệp định Paris vừa mới kí xong - tất nhiên có chữ kí của Nga, Trung Hoa và một số nước khác nhu Pháp, Anh… - hai bên trao đổi tù binh với nhau xong, Mĩ rút hết quân về rồi thì chiến tranh lại tái diễn. Thế là Hiệp định chưa ráo nét mực đã bị xé bỏ.
Cái chiến tranh đó kết thúc một cách nhanh chóng, trong vòng chưa đầy 2 năm, và lí do là:
Một bên (Bắc) mới thắng được Mĩ về ngoại giao, rất phấn khởi, khí thế đương hăng; một bên (Nam) bị Mĩ chẳng nghĩ gì đến liêm sỉ, nhẫn tâm bỏ rơi, vừa uất ức vừa thất vọng, thì phần thắng về ai, điều đó rất dễ hiểu.
Theo ông, không có cái đặc tính, thần tình gì trong cái chiến thắng đó:
Sự thắng lợi đó quả là vẻ vang cho miền Bắc, nhưng xét kĩ thì cũng như sự thắng lợi của quân đội Mao Trạch Đông năm 1949 (cũng chỉ trong có mấy tháng họ tiến từ Nam Kinh tới biên giới Bắc Việt); và cũng như sự thắng lợi của Khmer đỏ (ngày 17-4) khiến Lon Nol phải bỏ nước để thoát thân như Nguyễn Văn Thiệu, Đại sứ Mĩ phải nhục nhã cuốn cờ bỏ Nam Vang mà về nước, và Khmer đỏ vào Nam Vang 13 ngày trước cộng sản Bắc Việt vào Sài Gòn.
Thực chất của cái chiến thắng này rõ ràng chỉ là một sự xâm lăng, một cuộc cưỡng chiếm miền Nam, làm gì có sự giải phóng mà miền Bắc đã từng khoe khoang? Khi vỡ lẽ ra thì ông không thể không tự dè bỉu một tiếng:
Mấy ngày hạ tuần tháng 4 dương lịch đó tôi vẫn nghĩ tình hình không có gì bi đát lắm đến nỗi phải di cư. Quân Bắc có tiến vào Sài Gòn thì Nam Bắc cũng thương thuyết với nhau - trước Bắc chỉ đòi Mĩ rút đi, Thiệu rút đi, thì bây giờ họ rút cả rồi, còn muốn gì nữa? – mà Hiệp định Paris còn đó, Bắc phải thi hành chứ. Tôi ngây thơ quá.
Cái ngây thơ của ông cũng là cái ngây thơ của của nhóm người gọi là thành phần thứ ba ở miền Nam trước năm 1975 (họ đã bao giờ tự nhận lỗi lầm của họ không?). Tuy nhiên, ông cũng hứng khởi chờ đón một tương lai xán lạn:
Tôi phục quân đội giải phóng rất có kỉ luật: vào Sài Gòn mà không gây một vụ đổ máu (trước đó ai cũng ngại có một cuộc “tắm máu” như Huế năm 1968), một vụ cướp bóc nào; còn giúp đỡ dân chúng nữa. Tôi tràn trề hi vọng… Như vậy thì rất hợp với sở nguyện của mọi người, quá sở nguyện của giới trí thức nữa.
Chế độ mới
Một bài học vỡ lòng của ông về chế độ cộng sản:
Ai cũng biết chế độ cộng sản là chế độ độc đảng, chuyên chế của giai cấp vô sản… Họ nắm hết cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, nếu trong nước có đảng dân chủ, đảng xã hội thì những đảng này cũng phải theo đường lối của đảng cộng sản, không thể độc lập, đối lập được… Bất kể việc lớn nhỏ gì cũng do đảng quyết định hết, cơ quan nào dù lớn, quan trọng tới mấy cũng chỉ có việc thừa hành.
Nhưng ngay sau đó là một câu thú nhận của ông và cũng là một lời cảnh cáo cho những người cả tin, đón gió:
Điều đó ai cũng biết, nhưng muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống dưới chế độ dăm năm. Đó là bài học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà tôi và có lẽ cả 90% người miền Nam rút được từ 1975 tới nay. Muốn nghe ai phê bình, khen chê thì nghe, muốn đọc sách gì thì đọc, dù là người thông minh, chịu suy nghĩ, cũng chỉ biết lờ mờ một chế độ thôi.
Và với kinh nghiệm đó, ông đã viết và kể cho ta nghe những gì ông đã “sống” và “ thấy” được sau hơn 6 năm sống dưới chế độ cộng sản:
Dưới đây tôi ghi vắn tắt những điều tôi thấy về chế độ cộng sản ở miền Nam. Tôi không chép nhật kí, mà kí tính tôi mấy năm nay suy; tôi lại chỉ sống ở Sài Gòn, giao du ít, nên nhận xét của tôi chắc chắn là thiếu sót, có thể sai nữa, sai nhiếu nhất là năm, tháng. Tôi sẽ ráng giữ tinh thần khách quan và trung thực.
Hành chánh
Tổ chức
Tổ chức gia đình ở miền Nam khác hẳn lúc trước 1975:
Một gia đình (cha mẹ, con cái, anh em, bà con…) ăn chung, ở chung với nhau thì thành một hộ… Ba bốn chục nhà (thường gồm bốn năm chục hộ) họp lại thành một tổ… Tổ trưởng là gạch nối giữa chính quyền và nhân dân, loan báo chỉ thị của chính quyền xuống nhân dân, đạo đạt nguyện vọng của nhân dân lên chíng quyền… Tổ trưởng thường ít học nên hay nói, nói dai, đáng lẽ 15 phút xong thì kéo dài cả giờ, giờ rưỡi, mất thì giờ của dân…
Và hãy đọc một chuyện vui về “cán bộ ba d.” của ông:
Thỉnh thoảng lại có buổi học tập chính trị do cán bộ, thường là công an tới giảng cho 5-6 tổ gồm trên trăm học viên… Trình độ văn hoá của cán bộ chỉ vào hạng có tiểu học, bài học rất chán, mà cũng có một số người vỗ tay khen, có khi chưa hết câu đã vỗ tay, khiến cho các học viên miễn cưỡng vỗ tay theo. Trò đó có vẻ lố bịch, sau dân chúng phá bằng cách đáng lẽ chỉ vỗ tay một thì họ vỗ tay hai, kéo dài ra, bọn nịnh kia thấy ngượng phải bỏ… Tôi nhớ lời này của một bạn ở Hà Nội vào: “Bọn cán bộ đó nói dài, nói dai, nói dở, gọi là cán bộ ba d.”
Tổ chức hành chánh cũng toàn là lấy trò bịp bợm làm chuẩn:
Nhiều tổ họp thành một khóm… Phường có công sở lớn, nhiều phòng: hành chánh, y tế, giáo dục, kinh tế, công an… dân trong phường bầu đại diện, đại diện lại bầu một hội đồng nhân dân, chủ tịch hội đồng này là phường trưởng. Cách thức bầu cũng như bầu quốc hội. Đảng lập danh sách những người Đảng cho phép ứng cử… và dân chỉ được bầu cho những người đó. Chỉ là vấn đề hình thức. Dân đi bầu khắp mặt cho xong việc, không cần biết kết quả ra sao. Ứng cử viên chẳng cần ra mắt quốc dân. Riêng tôi suốt 5 năm không thấy mặt ông chủ tịch uỷ ban nhân dân phường một lần nào, hai lần xin gặp mặt thì cô thư kí bảo ông ấy đi vắng cả hai… Trên phường là quận… Trên quận là thành phố… do nhân dân trong tỉnh bầu lên theo cách thức đã kể trên.
Và lề lối làm việc của nhân viên hành chánh:
Sở nào cũng rất nhiều nhân viên mà công việc thì ít, vì giám đốc sở nào cũng đưa người thân hay người quen vào làm. Người ta gởi gắm lẫn nhau. Một cán bộ cao cấp chủ nhiệm hay phó chủ nhiệm một tờ báo nọ có lần bảo tôi, tờ báo của ông ta có non 100 nhân viên (trước ngày 30-4-75 một tờ báo như vậy chỉ có vài chục nhân viên mà lại nhiều trang, nhiều bài hơn), dư người rồi; vậy mà sáu tháng sau khi ông ta giao lại toà soạn cho một cán bộ khác, thì số nhân viên đã tăng lên tới 170; có những “kí giả” tới toà soạn mà chẳng có việc gì làm, nói chuyện láo một lúc, sửa một cột ấn cảo rồi đi dạo phố hoặc về nhà, tự thẹn mang tiếng kí giả mà cả năm không hề viết một hàng chữ cho tờ báo.
Nhân viên càng nhiều, công việc lại càng bê bối. Vì cái nạn bè phái tranh giành nhau, dẫm chân lên nhau, không ai chịu trách nhiệm cả, ai cũng đùn công việc cho người khác.
Tinh thần nhân viên
Quang cảnh công sở dưới chế độ mới:
Đa số công sở rất dơ dáy, lộn xộn, nhân viên nấu ăn ngay trong phòng giấy. Vào nhiều công sở ta có cảm tưởng vào những nhà việc ở thôn quê Nam Việt nửa thế kỉ trước: có 3-4 bàn giấy nhưng chỉ có hai nhân viên ngồi nói chuyện phiếm bên một bình trà, mấy cái chén, chỉ khác là có thêm một bình điếu thuốc lào. Nhân viên tới giờ nào thì tới.
Tinh thần nhân viên dưới chế độ mới:
Đói thì không làm việc được, công việc bê trễ, người ta chán nản, xin thôi… Xin thôi không được thì người ta cứ ngang nhiên bỏ sở; hoặc ở lại thì làm tà tà, lấy lệ… Có kẻ ỳ ra không làm gì cả.
Tình trạng hành chánh trong chế độ mới:
Hình như người ta không có một kế hoạch, chương trình gì cả, ra lệnh rồi phản lệnh liền liền mà tới giờ chót mới thông báo cho nhân viên hay; máy móc mua về đủ rồi mà vì lẽ này lẽ khác, không dùng tới, để cho nó sét. Rồi còn cái tệ dưới không tuân lệnh trên, một phần do tinh thần bè phái, một phần do chính sách địa phương tự trị… Đó là cái nạn cán nặng hơn gáo.
Và cái nhìn chung về cái xập xệ trong chế độ mới:
Tôi không kể những cái bê bối trong công sở: đánh mất hồ sơ, thụt két, ăn cắp của công, kho vật liệu không có sổ sách, cứ ít tháng lại thấy mất đồ mà không tìm ra được thủ phạm, v.v…, vì nếu kể thì dài quá.
Trong những cái bê bối vô số kể thì dĩ nhiên những vụ cướp nhà, lấy đất của dân miền Nam cũng phải có:
Tỉnh huyện lập ra nhiều cơ quan quá thì phải xây cất thêm nhiều, tịch thu nhà cửa đất đai của dân. Theo hiến pháp, tư sản được tôn trọng. Chỉ bọn tư bản bóc lột, một số nguỵ quân nguỵ quyền có tội nặng và những người vượt biên “chui” (lén) mới bị tịch thu nhà cửa. Nhưng một số cán bộ nhỏ muốn dâng công hoặc vì tư thù, tư lợi, tịch thu bừa bãi nhà cửa, đồ đạc của dân… Còn các gia đình có mặc cảm tội lỗi thì đành chịu ức hiếp: đương đêm quân đội tới bắt dọn đồ đạc ra đường để chúng chiếm nhà. Tệ đó gây bao phẫn uất trong dân chúng, các ông lớn ở trung ương có biết cho không?
Với những tệ hại như vậy, ông đã nghĩ tới cái thay đổi mà “không ai dám nghĩ tới”, cái “cuộc thay đổi lớn lao” đó rồi đây cũng sẽ phải xẩy ra mà thôi:
Cán bộ cao cấp và trung cấp còn biết những sở đoản của chế độ, lẽ nào các nhà lãnh đạo và đảng không biết. Tôi cho rằng người ta biết đấy, nhưng đó là bệnh cố hữu (inhérent) của chế độ, không thể chữa được, trừ phi có một cuộc thay đổi lớn lao mà không ai dám nghĩ tới.
Tài chánh
Ngân hàng - Hưu bổng - Đổi tiền
Như ta đã biết, vụ cướp tiền đã xẩy ra trước vụ cướp đất của dân chúng miền Nam:
Công việc đầu tiên của chính quyền 30-4-75 là chiếm hết các ngân hàng, các sở ngân khố. Không còn ngân hàng của tư nhân mà cũng không còn sở ngân khố…
Ai gửi tiền ở ngân hàng quốc gia mà mua công khố phiếu (tức quốc trái, được lời nhiều hơn là gửi ngân hàng tư: 30% mỗi năm, chứ không phải là 24%) thì chính phủ không trả cho đồng nào hết, vì đó là nợ của chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, mà Thiệu đã lưu vong, ôm hết quí kim đi rồi. Nhiều người ở trong trường hợp đó.
Bây giờ thì ta đã biết là Thiệu rời nước, không biết đem theo được bao nhiêu quí kim, nhưng số vàng dự trữ trong kho của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam vẫn còn nguyên vẹn sau ngày miền Nam bị cưỡng chiếm. Như vậy là những người gửi tiền lức đó đã bị nhà nước cộng sản Việt Nam cướp tiền một cách trắng trợn. Chính gia đình Nguyễn Hiến Lê cũng là nạn nhân của vụ quịt tiền này:
Nhà tôi buồn vì chính quyền không cho lãnh tiền hưu bổng (khoảng 30 đồng mới, 15.000 đồng cũ một tháng) mà không cho hay ngay, cứ làm thinh, bắt mỗi tháng lại sở hưu bổng hỏi han, chầu chực, như vậy hai năm, tới khi thấy người ta hạ cái bảng tên sở đi mới tuyệt vọng, không trông vào số tiền dưỡng lão đó nữa.
Còn hoàn cảnh của những nạn nhân khác thì sao?
Biết bao người ở trong trường hợp đó, nhiều người nghèo không trông cậy vào đâu được, phải tự tử. Có người đã mất hết số tiền và tư trang gởi ngân hàng, rồi lại mất luôn tiền hưu trí, hoá điên.
Nhưng ác độc nhất là hai vụ đổi tiền, chủ đích là làm cho dân nghèo đi:
Chính sách đổi tiền của chính phủ càng thất nhân tâm hơn nữa. Vụ đổi tiền thứ nhất xẩy ra tháng chín hay tháng mười 1975, và xẩy ra rất đột ngột. Sáng sớm hôm đó dân chúng mới hay rằng phải đổi tiền nội trong 24 giờ và mỗi người dân già trẻ lớn bé được đổi một số tiền là bao nhiêu đó tôi quên rồi, chỉ còn nhớ số tiền này như gia đình tôi chỉ đủ tiêu trong một tháng hay tháng rưỡi là cùng… rất nhiều người phẫn uất, tuyệt vọng; có người tự tử, có người đốt hằng thúng giấy bạc, hoặc từ trên lầu vãi giấy bạc xuống đường, không ai thèm lượm; ở Mỹ Tho, nhiều tiệm Trung Hoa thồn giấy bạc vào cà roòng, thả trôi sông.
Dân có nghèo thêm đi thì chỉ làm cho cán bộ giàu hơn lên:
Cấp trên không biết tổ chức hoặc biết tổ chức mà bên dưới không thèm nghe, tự ý làm sao thì làm, và hạng người ngu dốt, được cơ hội, tha hồ hách dịch, làm khó dân… nhiều cán bộ gian lận làm giàu.
Và đây là nỗi chán chường của ông đối với những người cai trị tự cho là liêm khiết, vì dân:
Lần đó là lần đầu tiên tôi thất vọng, thấy rõ chân tướng chẳng tốt đẹp gì của các đồng chí cách mạng trong chủ nghĩa xã hội đã được Hồ chủ tịch dạy dỗ mấy chục năm. Họ bỉ ổi, bê bối còn hơn chế độ tư bản nữa. Tôi không vơ đũa cả nắm. Cũng có một số liêm khiết, xã hội nào cũng vậy.
Nhưng chưa hết, cuộc đổi tiền lần thứ hai cũng khủng khiếp không kém lần thứ nhất:
Ba năm sau, năm 1978 lại đổi tiền một lần nữa, mà lần này ở khắp nước. Cũng đột ngột, cũng hạn chế số tiền được đổi, nhưng có tổ chức hơn, đỡ khổ cho dân… Vụ đổi tiền năm 1978 làm Bắc Việt xôn xao cũng bằng ở trong Nam, và cũng có đủ các tệ như ở Nam… Lần này người ta biết tin trước vài ngày: ai có nhiều tiền (ở Bắc cũng như ở Nam) cũng tung tiền ra mua vàng, xe đạp, vải, tủ lạnh, chén đĩa, bất kì thứ gì với bất cứ giá nào… Có người không biết mua gì, năn nỉ hàng xóm để lại cho con gà, con vịt. Người nghèo có từ nải chuối trở đi cũng đem đi bán. Ở Bắc có kẻ nhiều tiền quá thồn cả vào một cái bao, chở trên xe đạp, đến một chỗ vắng, làm bộ đánh rớt xuống đường rồi phóng đi như bay. Hạn chế, kiểm soát rất gắt, vậy mà ở Hà Nội ngay tối đêm mới đổi tiền, công an lại xét một nhà thấy một số tiền gấp trăm số gia đình đó được phép đổi. Và chính phủ cũng phải làm ngơ.
Sau một phần tư thế kỉ được giáo hoá mà như vậy thì chúng ta phải kết luận ra sao? Có chế độ nào thay đổi được bản tính con người trong một hai thế kỉ không? Bao giờ mới đào tạo được con người xã hội chủ nghĩa để họ xây dựng xã hội chủ nghĩa đây, như Hồ Chủ tịch nói?
Và kết quả sau hai cuộc đổi tiền:
Mỗi lần đổi tiền là một lần lạm phát… Dân sợ sự đổi tiền quá, không còn làm ăn gì được… Đời sống không được ổn định, dân lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, chẳng trách bệnh bao tử phát dữ dội, gấp mấy thời trước. Không ai muốn tiết kiệm nữa, kiếm được đồng nào tiêu hết đồng đó; những quán ăn, tiệm cà phê nhiều hơn và đông khách hơn trước ngày 30-4-1975.
Rồi ông kết luận:
Tóm lại chính sách của nhà nước là muốn quản lí tiền bạc của dân…
Dĩ nhiên là tiền bạc không phải chỉ là một thứ của dân mà nhà nước công sản quản lí như ta đã biết và thấy.
Kinh tế
Một lời “vinh danh” chế độ cộng sản của ông:
Sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, bước đầu của chế độ cộng sản là nắm hết sự sản xuất và sự phân phối trong nước. Có nắm được như vậy thì mới mau bình sản được, mới diệt được sự bóc lột của cá nhân, sự bất công, mới giảm được sự bất bình đẳng, trong nguyên tắc. Ai cũng hiểu như vậy nhưng chỉ cộng sản mới can đảm, kiên nhẫn, cương quyết thực hành điều đó. Cộng sản “đáng phục” chỉ ở điểm đó, còn tinh thần nhân đạo, thương người nghèo của họ không hơn gì - nếu không nói là kém – Kitô giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo…; mà lí thuyết của họ thì còn có thể đem ra bàn luận hoài được, khen cũng được mà chê cũng được.
Sản xuất
Nông nghiệp
Bài học lịch sử:
Về nông nghiệp, hai nước cộng sản đàn anh Nga và Trung Hoa đều thất bại. Sau 60 năm làm cách mạng, Nga vẫn thiếu lúa mì, phải mua của Mĩ, mà đất đai Nga Xô rất rộng chứ; Trung Hoa thì sau 30 năm, dân vẫn thiếu gạo, thiếu thịt.
Kết quả của bài học đó:
Ông thầy của chúng ta đã thất bại thì ta làm sao không thất bại được?... Hỏi thăm các bạn ở Bắc, ai cũng bảo hợp tác xã nông nghiệp ngoài đó, xét chung, thất bại, chỉ trừ một vài nơi ở Thái Bình… Trong nhiều hợp tác xã còn đất bỏ hoang, vì khó khai phá, không có lợi… Ở trong Nam mấy năm đầu dân phải đóng thuế nặng, lúa bị thu mua nhiều quá với giá rẻ mạt, phân bón, thuốc trừ sâu, xăng nhớt lại bị cán bộ ăn cắp bán chợ đen v.v… Do đó nông dân chán ngán, không ham sản xuất.
Lời khuyên của ông qua bài học lịch sử:
Chúng ta đừng nên quá tự tín, tự hào, mà nên so sánh nước mình với các nước láng giềng cũng nông nghiệp như mình, đất rộng cũng như mình, tức Thái Lan, Miến Điện… Quá tin ở sự khai phá đất hoang lại càng không nên.
Và một câu châm biếm nhẹ nhàng:
Tóm lại tôi nghĩ rằng hoà bình trở lại, lo sản xuất lúa gạo để đủ nuôi dân đã là may, không mong gì làm giàu được. Năm 1975 tôi trình bày lại ý đó với một cán bộ cách mạng, họ cho tôi là bi quan, bảo: “Dân tộc mình thắng được Mĩ, hùng cường thứ nhì Đông Á, chỉ 5 năm nữa thì kinh tế mình sẽ thịnh, hai chục năm nữa sẽ đuổi kịp Nhật rồi vượt họ.”… Có những người dễ tin bánh vẽ quá. Họ thật sung sướng, tối chắc ngủ ngon.
Hậu quả là nuớc Việt Nam đã được Đảng cho ngủ luôn trên 20 năm sau đó, để cho Nhật vượt xa nước mình, không biết đến bao giờ mới bắt kịp được, đừng nói chi tới chuyện nước mình vượt họ.
Cũng nên cần nhắc lại là chính sách lùa dân đi về vùng kinh tế mới (thật ra chỉ để cướp đất giựt nhà) là một lỗi lầm to lớn của cộng sản Việt Nam:
Một thất bại nữa là chính sách đưa dân thành thị đi vùng kinh tế mới để khai phá đất hoang.
Ngay cả những người hăng hái ra đi cũng không chịu nổi sự cực khổ và ức đáp:
Sau ngày 30-4-75, nhiều người rất phấn khởi, muốn sống một đời sống mới, xung phong đi kinh tế mới... Miền Sông Bé thất bại nặng; người ta bỏ về lần lần hết. Ngay những thanh niên xung phong thấy đồng bào đi hết, cũng phải xin về.
Nên những người đó sau cơn đổi đời:
Coi họ già và lam lũ như hạng lưu dân trong Đồng Tháp Mười hồi 1935. Tôi nghĩ chính hạng người đã hi sinh cả đời cha, đời con, đời cháu nữa để khai phá miền Nam này, sống cực khổ như mọi đó mới là khai quốc công thần, có phần gian lao hơn Thoại Ngọc Hầu, Nguyễn Hữu Cảnh nữa; nhưng khắp thế giới từ cổ đến kim, không ai nhắc tới họ; bây giờ người ta cũng để họ “sống chết mặc bay” mà còn bóc lột họ nữa.
Ông còn kể một hai câu chuyện về những cơ cực của những người đi vùng kinh tế mới này. Tôi không dẫn hết ra đây, nhưng đại loại là nơi họ sống:
… là một khu rừng cỏ tranh không có kinh rạch gì cả, không làm ruộng được, phải phát cỏ tranh, đào giếng (sâu 6 thước) để lấy nước uống, mà nước thì đục ngầu… Họ chịu đựng được non ba năm… hết chịu nổi… Cái chòi một mái chỉ có 6 thước vuông, một cái giường, một cái võng. Mẹ và bốn con ngủ trên giường (vì hai đứa con đã gởi người bà con nuôi dùm), dưới gầm là một con heo lớn, một con heo con, chung quanh là một bầy gà. Chồng ngủ võng. Trời nắng thì ngủ ngoài trời được. Không có bếp, cầu tiêu, nước uống là nuớc trong một cái hầm đào để đắp nền nhà… Cảnh một gia đình công chức hồi hưu (tôi chỉ nghe nói chứ không được biết) còn bi đát hơn gia đình đó nữa… về Sài Gòn thì không có hộ khẩu, không có chỗ trú chân, phải đi xin ăn, ở nhờ bạn, nay nhà người này, mai nhà người khác.
Kết quả của chính sách kinh tế mới là cảnh sống cầu bơ cầu bất của người bị cướp nhà:
Và hiện nay nhiều đường ở Sài Gòn đầy những người ở kinh tế mới về, vô gia cư, vô nghề nghiệp, ban ngày đi xin ăn, làm cu li hay ăn cắp, đêm ngủ vỉa hè, hoặc dưới mái chợ... Khắp các tỉnh đâu đâu cũng có tình cảnh đó.
Sự dốt nát của cán bộ nông thôn lúc bấy giờ:
Một nguyên nhân thất bại nữa của chính sách nông nghiệp là thiếu kĩ thuật gia giỏi… từ ngày 30-4-75, các công tác thuỷ lợi hầu hết do các cán bộ nông thôn mới học hết cấp I (hết tiểu học) điều khiển. Các đồng chí ấy bất chấp kinh nghiệm của nông dân, đã dốt mà lại độc đoán… Cán bộ của mình không được học, không biết tính toán gì cả (một cán bộ tài chánh xã mà không biết chia 72 cho 24), mạnh làng nào làng ấy đào, chẳng hề xét hậu quả gì bất lợi cho làng bên hay không; và kết quả nhiều khi trái ngược với ý muốn… Người ta đào kinh rất nhiều, miền nào cũng khoe đào được mấy chục con kinh, mấy trăm cây số kinh trong một mùa nắng. Có tốn kém gì đâu. Chỉ cần bắt thanh niên làm xâu, làm càng nhiều càng được tiếng “vinh quang”. Tới nỗi có miền dân phải ta thán, đặt ra câu ca dao này:
Mồ cha thằng Thiệu dời dinh,
Để tao ở lại đào kinh suốt đời.
Tập cho thanh niên lao động chân tay, góp sức vào việc kiến thiết quê hương là điều tốt, nhưng người ta phí sức dân quá. Dân do đó thấy tủi cho thân phận mình: trong thời chống Pháp, chống Mĩ, dân hi sinh cho anh em kháng chiến, bây giờ bị coi như nô lệ.
Dưới sự lãnh đạo và điều khiển của những “cán ngố” - cứ tưởng thắng Mĩ được một ván cờ chính trị thì đã khoe khoang tự cho mình là bá chủ ‘đỉnh cao trí tuệ’ - những người thất trận, kể cả người dân miền Nam, đều bị đối xử như là hạng bần cùng, hạ cấp. Điều đó dễ hiểu.
Công nghiệp
Tình trạng công nghiệp Việt Nam tệ hại đến nỗi:
Xí nghiệp quốc doanh nào cũng lỗ nặng… Từ bia, nước ngọt, đến tôm cá, đồ hộp như khóm, màn trúc, quần áo may sẵn, đồ sơn mài… bất kì món gì, mới đầu phẩm còn kha khá, sau cứ mỗi ngày một tệ, bị ngoại quốc gửi trả về… Tôi hỏi một người bà con ở Hà Nội, họ bảo ở Bắc cũng vậy: công nghiệp mỗi ngày một xuống dốc…
Nguyên nhân rất nhiều: quản lí dở, thiếu kĩ thuật gia giỏi… thiếu nguyên liệu, nhiên liệu, thiếu đủ thứ… không có tinh thần trách nhiệm, ai cũng làm việc tà tà… Ngoài Bắc có câu: “Làm thì đói, nói thì no, bồ thì sướng, bướng thì chết”, trong Nam lại thêm câu: “Làm cho lắm tắm không quần thay, làm lai rai ngày thay hai ba bộ.”
Đảng Cộng sản là đảng của vô sản, của thợ thuyền, mà công nhân trong các xưởng tinh thần như vậy đó.
Tình trạng các công ti lớn:
Các công ti công tư hợp doanh cũng lỗ vì công với tư rất khó hợp tác với nhau: công làm chủ thì tư tà tà, mà công thì quản lí rất dở, kĩ thuật kém, nghi kị tư, bao nhiêu quyền lợi, ôm lấy trọn.
Số phận của các công ti nhỏ cũng không khá hơn:
Các tổ hợp làm tiểu công nghệ của tư nhân như tổ hợp làm màn trúc, tranh sơn mài, đan áo, thêu, may áo… lay lắt sống được là may, đa số phải ngưng hoạt động vì xuất khẩu không được, bán trong nước cũng không được…
Do đó nước mình trước kia tự hào là tiền rừng bạc bể mà nay đứng vào hàng 10 nước nghèo nhất thế giới, có người nói vào hàng áp chót trên thế giới nữa. Lợi tức trung bình mỗi năm tính theo đầu người chỉ được 50 Mĩ kim, hai phần trăm của Nhật.
Ông chắc không bao giờ ngờ là hơn 60 năm sau, dưới sự lãnh đạo ưu tú của Đảng Cộng sản Việt Nam, GDP của dân Việt Nam còn thấp hơn cả dân… Thái Lan!
Phân phối
Xuất cảng chỉ còn than đá, xi măng, cao su – hơn hay kém trước tôi không biết - những hàng lặt vặt như bia, đồ hộp, tranh sơn mài, tôm… thì không đáng kể, mà mỗi năm một suy như đã nói ở trên. Nhập cảng cũng rất ít vì thiếu ngoại tệ, cho nên thứ gì cần lắm như xăng, nhớt, bột mì, máy móc mới bất đắc dĩ phải nhập khẩu; ngay đến dược phẩm cũng đành chịu thiếu thốn.
Đánh tư bản
Đây là một trong những độc chiêu đầu tiên cộng sản Việt Nam hành xử ngay trong những ngày tháng đầu ở miền Nam:
Hồi 30-4-75, ai cũng biết tư bản sẽ bị đập, thương mãi bị dẹp. Cho nên khi chính quyền ra lệnh các nhà buôn, nhà kinh doanh có môn bài, cửa tiệm phải đăng kí (kê khai), còn những thứ hàng nào, mỗi thứ bao nhiêu, giá bao nhiêu… (các người cho thuê nhà cũng phải khai) thì những người thức thời làm bản kê khai rồi tặng chính phủ. Trái lại, một nhà xuất bản và nhà sách khác lớn hơn nhiều, tin rằng mình làm ăn đứng đắn, quen nhiều nhà văn cách mạng, sẽ được yên, nên chỉ tặng chính phủ một phần nhỏ tài sản thôi và rốt cuộc mất gần hết nhẵn mà lại phải đi cải tạo mấy năm…
Chiến dịch kiểm kê đầu tiên để đập tư bản xẩy ra cuối năm 1976. Chính phủ đã chuẩn bị kĩ lưỡng, dùng rất nhiều sinh viên, thanh niên, nhốt họ trong trường hay trong cơ quan, không cho về nhà, không cho tiếp xúc với người ngoài, dạy cho họ trong một tuần (?) cách thức kiểm kê ra sao, phát giác những chỗ giấu đồ ra sao - nhất là vàng, kim cương - của bọn tư bản. Thành phố xôn xao dữ dội… Sau vụ đó, một số người bỗng hoá ra giàu. Hậu quả là tài sản của giới này chuyển qua giới khác một phần lớn, chính phủ được hưởng một phần nhỏ.
Ta thấy ngay là mục đích và thành quả của vụ đánh tư bản không khác gì với vụ đổi tiền. Vì vậy, sau đó, dĩ nhiên là cũng phải có màn đánh tư bản tập nhì:
Kết quả lần đầu đó được khả quan nhưng chưa được mãn ý, hai năm sau - 1978 – chính phủ đập một vố nữa: kiểm kê những nhà đã kiểm kê rồi, cả những nhà đã trả môn bài, cống hiến một phần gia sản, xem họ còn giấu gì hay không. Lần này kết quả không được tốt đẹp lắm mà hình như có trường hợp lạm quyền…
Chợ trời
Buôn bán chợ trời trong thời gian đó là một cách duy nhất để dân miền Nam sinh sống, vì thế:
Các tiệm lớn bị đóng cửa càng nhiều thì chợ trời càng phát đạt, càng đông, có đủ mặt hàng. Tất cả các tỉnh, các quận, đâu có buôn bán là đó có chợ trời… Cảnh sát lại đuổi họ thì họ chạy đi, cảnh sát đi khỏi rồi thì họ tụ trở lại, y như một bầy kiến bị ném một cục đá… Họ đông quá, nhiều người thất nghiệp quá, phải kiếm ăn cách đó…
Chợ trời giúp cho cách mạng được nhiều: cán bộ ngoài Bắc vào mua đồng hồ, máy thâu thanh, ti vi, tủ lạnh, xe đạp, giầy dép, quần áo… cơ quan nào cần cái gì thì cứ ra chợ trời, từ chiếc quạt máy, cái máy tính, dụng cụ y khoa, thuốc tây, đến cây bút bi… nếu không mua ở chợ trời thì mua ở đâu?
Và nhà nước ra tay cấm cản, thu dọn các chợ trời tưng bừng, nhưng không sao dẹp được (nếu dẹp hết đi thì dân làm sao mà sống được?), đành chịu thua:
Từ khi trung ương ra lệnh “không ngăn sông cấm chợ”, chợ trời được thể, phát triển càng mạnh.
Theo tôi, đây là dấu hiệu của cái vòng luân hồi như ông đã viết dưới đây:
Tháng 8-1981 chính quyền mới ra lệnh dẹp hết các sạp thuốc tây, bắt họ phải mở tiệm, có dược sĩ kiểm soát để khỏi bán đồ giả. Phải có vốn lớn mới thuê nhà, mở tiệm, mướn dược sĩ được - nếu có đủ dược sĩ – như vậy là trở về chế độ tư bản trước 1975 rồi. Cái vòng luẩn quẩn.
Vậy thì kinh tế tư bản đã bắt đầu được áp dụng trở lại từ lúc đó rồi. Và càng mạnh hơn về sau này, đến nay, nó được nguỵ trang dưới một cái danh hiệu mới mẻ nhưng không kém phần quái đản: kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa!
Phân phối nhu yếu phẩm
Năm 1975, trong nước còn nhiều sản phẩm nên mỗi tháng mỗi người dân ở thành phố được mua đủ gạo ăn, một hay nửa kí đường, một ít thịt cá, xà bông, dầu lửa…
Năm 1979, sản phẩm trong nước cạn dần, chính phủ phân phối cho dân được rất ít: gạo, bo bo, mì sợi may ra còn được đủ, còn những thứ khác thì năm thì mười hoạ mới được một chút ít… nhưng hạng cán bộ cao cấp có tiêu chuẩn riêng, có “bìa”, thì được phân phối quá đầy đủ…
Đó là chính sách chung của các nước trong phe chủ nghĩa xã hội… Việt Nam y hệt Nga và còn thua Trung Hoa một bực. Ở Trung Hoa, Mao chia giới cán bộ thành 30 cấp (thời Chiến quốc, Trung Hoa chỉ có 10 cấp thôi, theo sách tả truyện), mỗi cấp có tiêu chuẩn, đặc quyền riêng...
Phần này ông viết khá dài, ông có kể chuyện phong liêu, quan cách ở Trung Hoa ra sao, chuyện “Chính phủ lại bắt dân hùn tiền lập hợp tác xã tiêu thụ” mà sau đó: “Mỗi năm tính lời một lần, số lời đem ‘tặng’ chính phủ một phần lớn, còn bao nhiêu chia cho xã viên, nhưng không cho rút ra, mà chẳng được bao nhiêu, nên không ai xin rút ra”. Và câu kết luận là:
Cách thức phân phối rất bất tiện cho dân.
“Ngòi bút của Nguyễn Hiến Lê, tâm hồn và con tim Nguyễn Hiến Lê ngay từ đầu đã thuộc về nhân dân, những người lao động, những ai cực khổ, bần hàn và bất hạnh. Niềm tự hào về dòng giống, tổ tiên và nỗi đau về dân tộc trước những cuộc ngoại xâm đã kéo Nguyễn Hiến Lê, một nhà văn luôn ý thức lánh xa những gì phù phiếm như chức tước, địa vị và sự giàu sang không lương thiện xích gần với Cách mạng và tự coi mình là người của Cách mạng, bởi lẽ dễ hiểu, những điều Cách mạng đang làm cũng chính là mơ ước của ông.”
Sau khi khẳng định nhân cách của người cầm bút và tấm lòng của ông Nguyễn Hiến Lê đối với đất nước, Nhà xuất bản Văn học, một cơ quan văn hoá chính thức của nhà nước Việt Nam, giới thiệu cuốn sách này như sau:
“Trên tinh thần tôn trọng một học giả nghiêm túc và được nhiều người mến mộ, kính nể ấy, Nhà xuất bản Văn học trân trọng giới thiệu cuốn hồi kí của ông. Tuy là hồi kí một người, một nhà văn, nhưng qua đấy người đọc cảm nhận được xã hội Việt Nam xuyên suốt hai cuộc kháng chiến chống xâm lược mà nét hào hùng lẫn những vệt máu và nước mắt vẫn còn thấm đẫm mới rọi trên từng trang sử của dân tộc chúng ta. Từng sự kiện, từng con người (từ nhà chính khách cho đến nhà văn…) đều được cách nhìn Nguyễn Hiến Lê soi rọi và đánh giá.”
Và như thế, cuốn Hồi kí Nguyễn Hiến Lê đã được in tới sáu lần, đủ cho ta thấy sự hưởng ứng của độc giả và ảnh hưởng của nó tới độc giả trong nước như thế nào. Nhưng sau tất cả những lần tái bản, cho tới bản gần đây nhất, năm 2006, cuốn sách đều không được in lại một cách đầy đủ, có nhiều phần đã bị tỉa bớt mà theo Nhà xuất bản Văn học thì:
“Vì tác giả đã mất, Nhà xuất bản không thể cắt bỏ nhiều quá. Trong quá trình biên tập, chúng tôi chỉ lược bớt phần rườm rà và cắt những chỗ không thể nào để lại được. Chúng tôi mong bạn đọc thông cảm.”
Câu này làm độc giả không khỏi thắc mắc: nếu ông Nguyễn Hiến Lê còn sống, cuốn sách của ông có lẽ còn bị cắt bỏ nhiều hơn, thậm chí còn không được xuất bản (mà quả thật là vậy, ông mất năm 1984, vậy mà tới năm 1992 Hồi kí Nguyễn Hiến Lê mới được xuất bản lần đầu tiên trong nước). Tuy người đọc rất “thông cảm” với Nhà xuất bản Văn học, nhưng trong suốt 14 năm, sau 6 lần in, người ta phải tự đặt câu hỏi là: ông Nguyễn Hiến Lê, một học giả rất được trọng vọng ở Việt Nam, đã tâm sự những gì trong quãng đời cuối cùng của ông khiến cho cuốn sách của ông được xuất bản muộn màng và bị kiểm duyệt như vậy. Lời bạt của cuốn sách có nói: “Một lần nữa, chúng tôi tin rằng, xuất bản tập Hồi kí này là hết sức cần thiết, và rất bổ ích, nhưng chúng tôi cũng nghĩ rằng sẽ có những vấn đề cần phải tranh luận”. Vậy thì phải chăng những đoạn cắt bỏ đó - “những chỗ không thể nào để lại được” - là những vấn đề “cần phải được tranh luận”? Dù rằng “xét trên cảm hứng chung của ngòi bút Nguyễn Hiến Lê, chúng tôi vẫn thấy trước tiên đây là một học giả đầy trách nhiệm và xây dựng” như Nhà xuất bản đã nhận xét?
Phần “Mục lục” của cuốn Hồi kí Nguyễn Hiến Lê cho thấy cuốn sách gồm có 6 phần, chia làm 33 chương, những phần bị bỏ đi là chương XXI, XXII, XXIV (trong Phần IV), và chương XXX, XXXI, XXXII (trong Phần VI) mà nhà xuất bản bỏ trống không in, với một lời ghi chú vỏn vẹn là “xin để lại sau một thời gian nữa…”. Những chương này đã nói những gì khiến cho Nhà xuất bản Văn học (hay nói đúng hơn, nhà nước Việt Nam) phải giấu nhẹm, bưng bít hơn 23 năm sau khi ông Nguyễn Hiến Lê mất?
Câu trả lời được tìm thấy trong cuốn Hồi kí do nhà Văn nghệ - California – USA xuất bản năm 1988, in đủ 33 chương. Cuốn Hồi kí này đã được xuất bản hai năm sau khi ông Nguyễn Hiến Lê mất, toàn bộ được in làm ba tập, Tập I, II, III, và một phần trong cuốn Đời viết văn của tôi (Văn nghệ, 1986). Theo bản in cuốn Hồi kí của nhà Văn nghệ thì chương XXI, XXII, XXIV trong Phần IV – Nam Bắc chia hai - Chiến tranh Việt Mĩ gồm những tiết sau:
Chương XXI - Việt Nam chia hai (1954-1965)
A. Miền Nam
Gia đình Ngô Đình Diệm
Dẹp giáo phái - Truất Bảo Đại
Chính sách nhà Ngô
Dân nổi dậy chống đối - Hai vụ 11-11-60 và 26-2-62
Ấp chiến lược - Trận Ấp Bắc
Phật nạn - Đảo chánh 1-11-63
B. Miền Bắc
Pháp mất hết quyền lợi
Kinh tế suy - Đời sống khắc khổ
Cải cách điền địa - Vụ Quỳnh Lưu
Vụ Nhân văn - Giai phẩm
Kinh tế phát triển rất chậm
Bắc giúp Mặt trận Giải phóng miền Nam
Chương XXII - Chiến tranh Việt Mỹ (1965-1975)
Các chính phủ quân nhân
Mĩ đưa quân sang
Vụ Mậu Thân
Vừa đánh vừa đàm - Hiệp định Paris
Những bí mật trong chiến tranh Việt Mỹ
Mĩ rút về, quân Nam tan rã, chiến tranh chấm dứt
Chương XXIV - Xã hội miền Nam trong thời Mỹ
Kinh tế mền Nam từ 1954 đến 1974
Nhân số bộc phát - Nạn đói
Thị dân tăng lên quá mau - Nền kinh tế trái luật kinh tế
Sản xuất kém mà tiêu thụ mạnh
Đời sống quay cuồng
Cảm giác bất an - Thời đại kĩ nghệ điện tử
Phong hoá suy đồi
Ta có thể thấy ngay là những điều mà Nguyễn Hiến Lê viết về hai miền Nam, Bắc trong Chương XXI, vụ Mậu Thân, bí mật trong chiến tranh Việt - Mĩ trong Chương XXII, kinh tế, thời đại kĩ nghệ điện tử ở miền Nam trong Chương XXIV có thể là những điều sẽ làm cho nhà nước Việt Nam phải lúng túng bào chữa, lấp liếm nếu nó được in ra.
Nhưng có lẽ cái gai làm cho các nhà quản lý tư tưởng Việt Nam khó chịu nhất là những gì ông Nguyễn Hiến Lê đã viết trong Chương XXX, XXXI, và XXXII, trong Phần VI – Giai đoạn 1975-1981: Chương XXX tả lại đời sống xã hội miền Nam sau 6 năm dưới chế độ xã hội chủ nghĩa; chương XXXI viết lại những kết quả sau 6 năm đó; Chương XXXII tập hợp những ý kiến của ông về lỗi lầm của Đảng và về tương lai của đất nước.
Câu cuối cùng trong lời bạt của Nhà xuất bản Văn học có viết: “Nhà xuất bản rất mong sự đóng góp của độc giả trong nước cũng như ngoài nước để lần in sau chúng tôi rút được những kinh nghiệm tốt hơn.” Chẳng lẽ những đóng góp này chỉ là những ý kiến về kĩ thuật ấn loát hoặc trang trí hình bìa? Vì theo nhà Văn học thì “qua đấy (cuốn Hồi kí) người đọc cảm nhận được xã hội Việt Nam xuyên suốt hai cuộc kháng chiến”, vậy thì độc giả, nhất là độc giả trong nước, có thể nên lên một băn khoăn là: Dù chúng tôi thông cảm cho nhà xuất bản đã cắt bỏ những chương quan trọng trên trong tất cả những lần tái bản, nhưng chúng tôi, với tấm lòng ngưỡng mộ một vị học giả quá cố, vẫn không khỏi thắc mắc tự hỏi ông Nguyễn Hiến Lê đã nhận xét những gì về xã hội Việt Nam sau cuộc kháng chiến chống Pháp, Mĩ. Đến bao giờ chúng tôi mới đọc được toàn bộ cuốn Hồi kí của ông? Đã 16 năm rồi chứ đâu phải là ít?
Trong tinh thần tự do công luận đó, tôi xin trích ra sau đây chương XXX, XXXI, XXXII trong cuốn Hồi kí của học giả Nguyễn Hiến Lê. Có lẽ lý tưởng nhất là đăng nguyên văn những chương này, không thiếu sót một câu, một chữ, do Nhà xuất bản Văn nghệ in năm 1988; nhưng ba chương này rất dài, chiếm hơn ba phần tư (160 trang) cuốn Hồi kí, Tập III, tức là gần một phần năm của toàn bộ cuốn Hồi kí dầy non một ngàn trang. Mục đích của tôi là tóm tắt, thu gom lại những ý tưởng, câu viết của ông trong ba chương đã bị cắt bỏ trên thành một bài đọc ngắn để độc giả có thể biết ngay được tâm tư, trăn trở của ông sau 6 năm sống dưới chế độ cộng sản.
Tôi sẽ giữ đúng bố cục mà ông đã dàn trong ba chương này, và theo sát những ý tưởng, diễn biến trong cách viết của ông. Tôi cũng xin mạn phép thỉnh thoảng xen vào vài ý kiến cá nhân phụ thuộc, phần lớn là để cập nhật tình trạng xã hội Việt Nam mà, sau hơn 25 năm, đã có nhiều thay đổi.
*
Hồi kí của Nguyễn Hiến Lê
(Văn nghệ xuất bản – California - USA, 1988)
Phần VI- Giai đoạn 1975 -1981
Chương XXX - Chế độ tập thể ở miền Nam
Cảm tình của tôi với kháng chiến
Mở đầu chương này, Nguyễn Hiến Lê bộc lộ tâm sự của ông trước năm 1975:
Tôi vốn có cảm tình với Việt Minh, với cộng sản; ghét thực dân Pháp, Mĩ, nhất là từ 1965 khi Mĩ đổ quân ào ạt vào miền Nam; tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mĩ. Tôi phục tinh thần hi sinh, có kỉ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có thể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp.
Nhưng cảm tình của ông với cộng sản Việt Nam không phải là tuyệt đối; ngay từ đầu, ông đã nhận ra sự tàn nhẫn của chế độ cộng sản:
Từ năm 1954 tôi đã được đọc nhiều báo tố cộng của chính phủ Ngô Đình Diệm; hơn nữa, tôi được nhiều bạn của tôi di cư vô Sài Gòn kể cho tôi nghe chính sách điền địa ở Bắc tàn nhẫn tới mức bỏ tù, giết cả những người kháng chiến, chỉ vì họ có 4-5 mẫu ruộng (chưa đầy hai hecta) và bị liệt vào hạng điền chủ, tư sản bóc lột kẻ nghèo. Chính những bạn tôi đó cũng đã giúp kháng chiến, đều có lòng ái quốc, đều là những người đứng đắn, tốt, mà không thể sống ở ngoài đó được, phải bỏ cả mồ mả tổ tiên, nhà cửa, bà con họ hàng vô đây với hai bàn tay trắng, sống chen chúc trong những khu lao động, can đảm lập lại cuộc đời.
Sau đó, với những diễn biến của chiến tranh, lòng ông càng trở nên đau thương trước tình cảnh chém giết tanh máu cùng bộ máy hỗ trợ cho cuộc huynh đệ tương tàn đó. Điển hình là:
Năm 1968, nghe những tin tức và những hình ảnh về cuộc tàn sát rùng rợn ở Huế trong biến cố Mậu Thân, tôi hoang mang, đau lòng cho đồng bào Huế và lo lắng cho tương lai dân tộc.
Nhưng ông vẫn tin tưởng vào cái ảo nhoáng bề ngoài của Đảng Cộng sản Việt Nam, được sơn phết bởi những chiến thắng trong thời kháng chiến, mà công lao đó, thực ra, không phải chỉ riêng của ông Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đọc trước sau khoảng hai chục cuốn viết về cộng sản Nga, Trung Hoa, Đông Âu như vậy, tôi tuy ghét, tởm Staline, Mao Trạch Đông… nhưng vẫn tin rằng chế độ cộng sản công bằng hơn chế độ tư bản; nhất là cộng sản Bắc Việt dưới sự lãnh đạo thời kháng chiến của Hồ Chủ tịch mà tám chín phần mười người Việt kính mến, khắp thế giới phục thì không thể nào tàn nhẫn như Nga, Trung Hoa được, Đảng có lỗi lầm thì sửa sai ngay. Đó là tâm lí chung của đa số trí thức Sài Gòn, chứ chẳng riêng của tôi.
Và vì thế, ngay từ năm 1973, ông đã mong đợi một đời sống mới:
Khi Hội nghị Paris kết thúc năm 1973, chúng tôi mừng rằng chiến tranh sắp chấm dứt sau non ba chục năm dai dẳng, khốc liệt, toàn dân sẽ nắm tay nhau kiến thiết quốc gia… Riêng tôi, tôi sẵn sàng bỏ một ít tự do đi, sống thanh bạch hơn nữa, miễn là hết thấy cái nạn tham nhũng, ăn cắp, ăn cướp, phè phỡn, bóc lột và thấy con người có tư cách hơn. Tôi vẫn thường nói với nhà tôi: cộng sản vào đây thì chỉ nội 48 giờ là hết cái tệ đó.
Ngày 30-4-75 - Việt Nam thống nhất
Sự tráo trở của cộng sản Việt Nam sau Hiệp định Paris:
Nhưng Hiệp định Paris vừa mới kí xong - tất nhiên có chữ kí của Nga, Trung Hoa và một số nước khác nhu Pháp, Anh… - hai bên trao đổi tù binh với nhau xong, Mĩ rút hết quân về rồi thì chiến tranh lại tái diễn. Thế là Hiệp định chưa ráo nét mực đã bị xé bỏ.
Cái chiến tranh đó kết thúc một cách nhanh chóng, trong vòng chưa đầy 2 năm, và lí do là:
Một bên (Bắc) mới thắng được Mĩ về ngoại giao, rất phấn khởi, khí thế đương hăng; một bên (Nam) bị Mĩ chẳng nghĩ gì đến liêm sỉ, nhẫn tâm bỏ rơi, vừa uất ức vừa thất vọng, thì phần thắng về ai, điều đó rất dễ hiểu.
Theo ông, không có cái đặc tính, thần tình gì trong cái chiến thắng đó:
Sự thắng lợi đó quả là vẻ vang cho miền Bắc, nhưng xét kĩ thì cũng như sự thắng lợi của quân đội Mao Trạch Đông năm 1949 (cũng chỉ trong có mấy tháng họ tiến từ Nam Kinh tới biên giới Bắc Việt); và cũng như sự thắng lợi của Khmer đỏ (ngày 17-4) khiến Lon Nol phải bỏ nước để thoát thân như Nguyễn Văn Thiệu, Đại sứ Mĩ phải nhục nhã cuốn cờ bỏ Nam Vang mà về nước, và Khmer đỏ vào Nam Vang 13 ngày trước cộng sản Bắc Việt vào Sài Gòn.
Thực chất của cái chiến thắng này rõ ràng chỉ là một sự xâm lăng, một cuộc cưỡng chiếm miền Nam, làm gì có sự giải phóng mà miền Bắc đã từng khoe khoang? Khi vỡ lẽ ra thì ông không thể không tự dè bỉu một tiếng:
Mấy ngày hạ tuần tháng 4 dương lịch đó tôi vẫn nghĩ tình hình không có gì bi đát lắm đến nỗi phải di cư. Quân Bắc có tiến vào Sài Gòn thì Nam Bắc cũng thương thuyết với nhau - trước Bắc chỉ đòi Mĩ rút đi, Thiệu rút đi, thì bây giờ họ rút cả rồi, còn muốn gì nữa? – mà Hiệp định Paris còn đó, Bắc phải thi hành chứ. Tôi ngây thơ quá.
Cái ngây thơ của ông cũng là cái ngây thơ của của nhóm người gọi là thành phần thứ ba ở miền Nam trước năm 1975 (họ đã bao giờ tự nhận lỗi lầm của họ không?). Tuy nhiên, ông cũng hứng khởi chờ đón một tương lai xán lạn:
Tôi phục quân đội giải phóng rất có kỉ luật: vào Sài Gòn mà không gây một vụ đổ máu (trước đó ai cũng ngại có một cuộc “tắm máu” như Huế năm 1968), một vụ cướp bóc nào; còn giúp đỡ dân chúng nữa. Tôi tràn trề hi vọng… Như vậy thì rất hợp với sở nguyện của mọi người, quá sở nguyện của giới trí thức nữa.
Chế độ mới
Một bài học vỡ lòng của ông về chế độ cộng sản:
Ai cũng biết chế độ cộng sản là chế độ độc đảng, chuyên chế của giai cấp vô sản… Họ nắm hết cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, nếu trong nước có đảng dân chủ, đảng xã hội thì những đảng này cũng phải theo đường lối của đảng cộng sản, không thể độc lập, đối lập được… Bất kể việc lớn nhỏ gì cũng do đảng quyết định hết, cơ quan nào dù lớn, quan trọng tới mấy cũng chỉ có việc thừa hành.
Nhưng ngay sau đó là một câu thú nhận của ông và cũng là một lời cảnh cáo cho những người cả tin, đón gió:
Điều đó ai cũng biết, nhưng muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống dưới chế độ dăm năm. Đó là bài học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà tôi và có lẽ cả 90% người miền Nam rút được từ 1975 tới nay. Muốn nghe ai phê bình, khen chê thì nghe, muốn đọc sách gì thì đọc, dù là người thông minh, chịu suy nghĩ, cũng chỉ biết lờ mờ một chế độ thôi.
Và với kinh nghiệm đó, ông đã viết và kể cho ta nghe những gì ông đã “sống” và “ thấy” được sau hơn 6 năm sống dưới chế độ cộng sản:
Dưới đây tôi ghi vắn tắt những điều tôi thấy về chế độ cộng sản ở miền Nam. Tôi không chép nhật kí, mà kí tính tôi mấy năm nay suy; tôi lại chỉ sống ở Sài Gòn, giao du ít, nên nhận xét của tôi chắc chắn là thiếu sót, có thể sai nữa, sai nhiếu nhất là năm, tháng. Tôi sẽ ráng giữ tinh thần khách quan và trung thực.
Hành chánh
Tổ chức
Tổ chức gia đình ở miền Nam khác hẳn lúc trước 1975:
Một gia đình (cha mẹ, con cái, anh em, bà con…) ăn chung, ở chung với nhau thì thành một hộ… Ba bốn chục nhà (thường gồm bốn năm chục hộ) họp lại thành một tổ… Tổ trưởng là gạch nối giữa chính quyền và nhân dân, loan báo chỉ thị của chính quyền xuống nhân dân, đạo đạt nguyện vọng của nhân dân lên chíng quyền… Tổ trưởng thường ít học nên hay nói, nói dai, đáng lẽ 15 phút xong thì kéo dài cả giờ, giờ rưỡi, mất thì giờ của dân…
Và hãy đọc một chuyện vui về “cán bộ ba d.” của ông:
Thỉnh thoảng lại có buổi học tập chính trị do cán bộ, thường là công an tới giảng cho 5-6 tổ gồm trên trăm học viên… Trình độ văn hoá của cán bộ chỉ vào hạng có tiểu học, bài học rất chán, mà cũng có một số người vỗ tay khen, có khi chưa hết câu đã vỗ tay, khiến cho các học viên miễn cưỡng vỗ tay theo. Trò đó có vẻ lố bịch, sau dân chúng phá bằng cách đáng lẽ chỉ vỗ tay một thì họ vỗ tay hai, kéo dài ra, bọn nịnh kia thấy ngượng phải bỏ… Tôi nhớ lời này của một bạn ở Hà Nội vào: “Bọn cán bộ đó nói dài, nói dai, nói dở, gọi là cán bộ ba d.”
Tổ chức hành chánh cũng toàn là lấy trò bịp bợm làm chuẩn:
Nhiều tổ họp thành một khóm… Phường có công sở lớn, nhiều phòng: hành chánh, y tế, giáo dục, kinh tế, công an… dân trong phường bầu đại diện, đại diện lại bầu một hội đồng nhân dân, chủ tịch hội đồng này là phường trưởng. Cách thức bầu cũng như bầu quốc hội. Đảng lập danh sách những người Đảng cho phép ứng cử… và dân chỉ được bầu cho những người đó. Chỉ là vấn đề hình thức. Dân đi bầu khắp mặt cho xong việc, không cần biết kết quả ra sao. Ứng cử viên chẳng cần ra mắt quốc dân. Riêng tôi suốt 5 năm không thấy mặt ông chủ tịch uỷ ban nhân dân phường một lần nào, hai lần xin gặp mặt thì cô thư kí bảo ông ấy đi vắng cả hai… Trên phường là quận… Trên quận là thành phố… do nhân dân trong tỉnh bầu lên theo cách thức đã kể trên.
Và lề lối làm việc của nhân viên hành chánh:
Sở nào cũng rất nhiều nhân viên mà công việc thì ít, vì giám đốc sở nào cũng đưa người thân hay người quen vào làm. Người ta gởi gắm lẫn nhau. Một cán bộ cao cấp chủ nhiệm hay phó chủ nhiệm một tờ báo nọ có lần bảo tôi, tờ báo của ông ta có non 100 nhân viên (trước ngày 30-4-75 một tờ báo như vậy chỉ có vài chục nhân viên mà lại nhiều trang, nhiều bài hơn), dư người rồi; vậy mà sáu tháng sau khi ông ta giao lại toà soạn cho một cán bộ khác, thì số nhân viên đã tăng lên tới 170; có những “kí giả” tới toà soạn mà chẳng có việc gì làm, nói chuyện láo một lúc, sửa một cột ấn cảo rồi đi dạo phố hoặc về nhà, tự thẹn mang tiếng kí giả mà cả năm không hề viết một hàng chữ cho tờ báo.
Nhân viên càng nhiều, công việc lại càng bê bối. Vì cái nạn bè phái tranh giành nhau, dẫm chân lên nhau, không ai chịu trách nhiệm cả, ai cũng đùn công việc cho người khác.
Tinh thần nhân viên
Quang cảnh công sở dưới chế độ mới:
Đa số công sở rất dơ dáy, lộn xộn, nhân viên nấu ăn ngay trong phòng giấy. Vào nhiều công sở ta có cảm tưởng vào những nhà việc ở thôn quê Nam Việt nửa thế kỉ trước: có 3-4 bàn giấy nhưng chỉ có hai nhân viên ngồi nói chuyện phiếm bên một bình trà, mấy cái chén, chỉ khác là có thêm một bình điếu thuốc lào. Nhân viên tới giờ nào thì tới.
Tinh thần nhân viên dưới chế độ mới:
Đói thì không làm việc được, công việc bê trễ, người ta chán nản, xin thôi… Xin thôi không được thì người ta cứ ngang nhiên bỏ sở; hoặc ở lại thì làm tà tà, lấy lệ… Có kẻ ỳ ra không làm gì cả.
Tình trạng hành chánh trong chế độ mới:
Hình như người ta không có một kế hoạch, chương trình gì cả, ra lệnh rồi phản lệnh liền liền mà tới giờ chót mới thông báo cho nhân viên hay; máy móc mua về đủ rồi mà vì lẽ này lẽ khác, không dùng tới, để cho nó sét. Rồi còn cái tệ dưới không tuân lệnh trên, một phần do tinh thần bè phái, một phần do chính sách địa phương tự trị… Đó là cái nạn cán nặng hơn gáo.
Và cái nhìn chung về cái xập xệ trong chế độ mới:
Tôi không kể những cái bê bối trong công sở: đánh mất hồ sơ, thụt két, ăn cắp của công, kho vật liệu không có sổ sách, cứ ít tháng lại thấy mất đồ mà không tìm ra được thủ phạm, v.v…, vì nếu kể thì dài quá.
Trong những cái bê bối vô số kể thì dĩ nhiên những vụ cướp nhà, lấy đất của dân miền Nam cũng phải có:
Tỉnh huyện lập ra nhiều cơ quan quá thì phải xây cất thêm nhiều, tịch thu nhà cửa đất đai của dân. Theo hiến pháp, tư sản được tôn trọng. Chỉ bọn tư bản bóc lột, một số nguỵ quân nguỵ quyền có tội nặng và những người vượt biên “chui” (lén) mới bị tịch thu nhà cửa. Nhưng một số cán bộ nhỏ muốn dâng công hoặc vì tư thù, tư lợi, tịch thu bừa bãi nhà cửa, đồ đạc của dân… Còn các gia đình có mặc cảm tội lỗi thì đành chịu ức hiếp: đương đêm quân đội tới bắt dọn đồ đạc ra đường để chúng chiếm nhà. Tệ đó gây bao phẫn uất trong dân chúng, các ông lớn ở trung ương có biết cho không?
Với những tệ hại như vậy, ông đã nghĩ tới cái thay đổi mà “không ai dám nghĩ tới”, cái “cuộc thay đổi lớn lao” đó rồi đây cũng sẽ phải xẩy ra mà thôi:
Cán bộ cao cấp và trung cấp còn biết những sở đoản của chế độ, lẽ nào các nhà lãnh đạo và đảng không biết. Tôi cho rằng người ta biết đấy, nhưng đó là bệnh cố hữu (inhérent) của chế độ, không thể chữa được, trừ phi có một cuộc thay đổi lớn lao mà không ai dám nghĩ tới.
Tài chánh
Ngân hàng - Hưu bổng - Đổi tiền
Như ta đã biết, vụ cướp tiền đã xẩy ra trước vụ cướp đất của dân chúng miền Nam:
Công việc đầu tiên của chính quyền 30-4-75 là chiếm hết các ngân hàng, các sở ngân khố. Không còn ngân hàng của tư nhân mà cũng không còn sở ngân khố…
Ai gửi tiền ở ngân hàng quốc gia mà mua công khố phiếu (tức quốc trái, được lời nhiều hơn là gửi ngân hàng tư: 30% mỗi năm, chứ không phải là 24%) thì chính phủ không trả cho đồng nào hết, vì đó là nợ của chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, mà Thiệu đã lưu vong, ôm hết quí kim đi rồi. Nhiều người ở trong trường hợp đó.
Bây giờ thì ta đã biết là Thiệu rời nước, không biết đem theo được bao nhiêu quí kim, nhưng số vàng dự trữ trong kho của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam vẫn còn nguyên vẹn sau ngày miền Nam bị cưỡng chiếm. Như vậy là những người gửi tiền lức đó đã bị nhà nước cộng sản Việt Nam cướp tiền một cách trắng trợn. Chính gia đình Nguyễn Hiến Lê cũng là nạn nhân của vụ quịt tiền này:
Nhà tôi buồn vì chính quyền không cho lãnh tiền hưu bổng (khoảng 30 đồng mới, 15.000 đồng cũ một tháng) mà không cho hay ngay, cứ làm thinh, bắt mỗi tháng lại sở hưu bổng hỏi han, chầu chực, như vậy hai năm, tới khi thấy người ta hạ cái bảng tên sở đi mới tuyệt vọng, không trông vào số tiền dưỡng lão đó nữa.
Còn hoàn cảnh của những nạn nhân khác thì sao?
Biết bao người ở trong trường hợp đó, nhiều người nghèo không trông cậy vào đâu được, phải tự tử. Có người đã mất hết số tiền và tư trang gởi ngân hàng, rồi lại mất luôn tiền hưu trí, hoá điên.
Nhưng ác độc nhất là hai vụ đổi tiền, chủ đích là làm cho dân nghèo đi:
Chính sách đổi tiền của chính phủ càng thất nhân tâm hơn nữa. Vụ đổi tiền thứ nhất xẩy ra tháng chín hay tháng mười 1975, và xẩy ra rất đột ngột. Sáng sớm hôm đó dân chúng mới hay rằng phải đổi tiền nội trong 24 giờ và mỗi người dân già trẻ lớn bé được đổi một số tiền là bao nhiêu đó tôi quên rồi, chỉ còn nhớ số tiền này như gia đình tôi chỉ đủ tiêu trong một tháng hay tháng rưỡi là cùng… rất nhiều người phẫn uất, tuyệt vọng; có người tự tử, có người đốt hằng thúng giấy bạc, hoặc từ trên lầu vãi giấy bạc xuống đường, không ai thèm lượm; ở Mỹ Tho, nhiều tiệm Trung Hoa thồn giấy bạc vào cà roòng, thả trôi sông.
Dân có nghèo thêm đi thì chỉ làm cho cán bộ giàu hơn lên:
Cấp trên không biết tổ chức hoặc biết tổ chức mà bên dưới không thèm nghe, tự ý làm sao thì làm, và hạng người ngu dốt, được cơ hội, tha hồ hách dịch, làm khó dân… nhiều cán bộ gian lận làm giàu.
Và đây là nỗi chán chường của ông đối với những người cai trị tự cho là liêm khiết, vì dân:
Lần đó là lần đầu tiên tôi thất vọng, thấy rõ chân tướng chẳng tốt đẹp gì của các đồng chí cách mạng trong chủ nghĩa xã hội đã được Hồ chủ tịch dạy dỗ mấy chục năm. Họ bỉ ổi, bê bối còn hơn chế độ tư bản nữa. Tôi không vơ đũa cả nắm. Cũng có một số liêm khiết, xã hội nào cũng vậy.
Nhưng chưa hết, cuộc đổi tiền lần thứ hai cũng khủng khiếp không kém lần thứ nhất:
Ba năm sau, năm 1978 lại đổi tiền một lần nữa, mà lần này ở khắp nước. Cũng đột ngột, cũng hạn chế số tiền được đổi, nhưng có tổ chức hơn, đỡ khổ cho dân… Vụ đổi tiền năm 1978 làm Bắc Việt xôn xao cũng bằng ở trong Nam, và cũng có đủ các tệ như ở Nam… Lần này người ta biết tin trước vài ngày: ai có nhiều tiền (ở Bắc cũng như ở Nam) cũng tung tiền ra mua vàng, xe đạp, vải, tủ lạnh, chén đĩa, bất kì thứ gì với bất cứ giá nào… Có người không biết mua gì, năn nỉ hàng xóm để lại cho con gà, con vịt. Người nghèo có từ nải chuối trở đi cũng đem đi bán. Ở Bắc có kẻ nhiều tiền quá thồn cả vào một cái bao, chở trên xe đạp, đến một chỗ vắng, làm bộ đánh rớt xuống đường rồi phóng đi như bay. Hạn chế, kiểm soát rất gắt, vậy mà ở Hà Nội ngay tối đêm mới đổi tiền, công an lại xét một nhà thấy một số tiền gấp trăm số gia đình đó được phép đổi. Và chính phủ cũng phải làm ngơ.
Sau một phần tư thế kỉ được giáo hoá mà như vậy thì chúng ta phải kết luận ra sao? Có chế độ nào thay đổi được bản tính con người trong một hai thế kỉ không? Bao giờ mới đào tạo được con người xã hội chủ nghĩa để họ xây dựng xã hội chủ nghĩa đây, như Hồ Chủ tịch nói?
Và kết quả sau hai cuộc đổi tiền:
Mỗi lần đổi tiền là một lần lạm phát… Dân sợ sự đổi tiền quá, không còn làm ăn gì được… Đời sống không được ổn định, dân lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, chẳng trách bệnh bao tử phát dữ dội, gấp mấy thời trước. Không ai muốn tiết kiệm nữa, kiếm được đồng nào tiêu hết đồng đó; những quán ăn, tiệm cà phê nhiều hơn và đông khách hơn trước ngày 30-4-1975.
Rồi ông kết luận:
Tóm lại chính sách của nhà nước là muốn quản lí tiền bạc của dân…
Dĩ nhiên là tiền bạc không phải chỉ là một thứ của dân mà nhà nước công sản quản lí như ta đã biết và thấy.
Kinh tế
Một lời “vinh danh” chế độ cộng sản của ông:
Sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, bước đầu của chế độ cộng sản là nắm hết sự sản xuất và sự phân phối trong nước. Có nắm được như vậy thì mới mau bình sản được, mới diệt được sự bóc lột của cá nhân, sự bất công, mới giảm được sự bất bình đẳng, trong nguyên tắc. Ai cũng hiểu như vậy nhưng chỉ cộng sản mới can đảm, kiên nhẫn, cương quyết thực hành điều đó. Cộng sản “đáng phục” chỉ ở điểm đó, còn tinh thần nhân đạo, thương người nghèo của họ không hơn gì - nếu không nói là kém – Kitô giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo…; mà lí thuyết của họ thì còn có thể đem ra bàn luận hoài được, khen cũng được mà chê cũng được.
Sản xuất
Nông nghiệp
Bài học lịch sử:
Về nông nghiệp, hai nước cộng sản đàn anh Nga và Trung Hoa đều thất bại. Sau 60 năm làm cách mạng, Nga vẫn thiếu lúa mì, phải mua của Mĩ, mà đất đai Nga Xô rất rộng chứ; Trung Hoa thì sau 30 năm, dân vẫn thiếu gạo, thiếu thịt.
Kết quả của bài học đó:
Ông thầy của chúng ta đã thất bại thì ta làm sao không thất bại được?... Hỏi thăm các bạn ở Bắc, ai cũng bảo hợp tác xã nông nghiệp ngoài đó, xét chung, thất bại, chỉ trừ một vài nơi ở Thái Bình… Trong nhiều hợp tác xã còn đất bỏ hoang, vì khó khai phá, không có lợi… Ở trong Nam mấy năm đầu dân phải đóng thuế nặng, lúa bị thu mua nhiều quá với giá rẻ mạt, phân bón, thuốc trừ sâu, xăng nhớt lại bị cán bộ ăn cắp bán chợ đen v.v… Do đó nông dân chán ngán, không ham sản xuất.
Lời khuyên của ông qua bài học lịch sử:
Chúng ta đừng nên quá tự tín, tự hào, mà nên so sánh nước mình với các nước láng giềng cũng nông nghiệp như mình, đất rộng cũng như mình, tức Thái Lan, Miến Điện… Quá tin ở sự khai phá đất hoang lại càng không nên.
Và một câu châm biếm nhẹ nhàng:
Tóm lại tôi nghĩ rằng hoà bình trở lại, lo sản xuất lúa gạo để đủ nuôi dân đã là may, không mong gì làm giàu được. Năm 1975 tôi trình bày lại ý đó với một cán bộ cách mạng, họ cho tôi là bi quan, bảo: “Dân tộc mình thắng được Mĩ, hùng cường thứ nhì Đông Á, chỉ 5 năm nữa thì kinh tế mình sẽ thịnh, hai chục năm nữa sẽ đuổi kịp Nhật rồi vượt họ.”… Có những người dễ tin bánh vẽ quá. Họ thật sung sướng, tối chắc ngủ ngon.
Hậu quả là nuớc Việt Nam đã được Đảng cho ngủ luôn trên 20 năm sau đó, để cho Nhật vượt xa nước mình, không biết đến bao giờ mới bắt kịp được, đừng nói chi tới chuyện nước mình vượt họ.
Cũng nên cần nhắc lại là chính sách lùa dân đi về vùng kinh tế mới (thật ra chỉ để cướp đất giựt nhà) là một lỗi lầm to lớn của cộng sản Việt Nam:
Một thất bại nữa là chính sách đưa dân thành thị đi vùng kinh tế mới để khai phá đất hoang.
Ngay cả những người hăng hái ra đi cũng không chịu nổi sự cực khổ và ức đáp:
Sau ngày 30-4-75, nhiều người rất phấn khởi, muốn sống một đời sống mới, xung phong đi kinh tế mới... Miền Sông Bé thất bại nặng; người ta bỏ về lần lần hết. Ngay những thanh niên xung phong thấy đồng bào đi hết, cũng phải xin về.
Nên những người đó sau cơn đổi đời:
Coi họ già và lam lũ như hạng lưu dân trong Đồng Tháp Mười hồi 1935. Tôi nghĩ chính hạng người đã hi sinh cả đời cha, đời con, đời cháu nữa để khai phá miền Nam này, sống cực khổ như mọi đó mới là khai quốc công thần, có phần gian lao hơn Thoại Ngọc Hầu, Nguyễn Hữu Cảnh nữa; nhưng khắp thế giới từ cổ đến kim, không ai nhắc tới họ; bây giờ người ta cũng để họ “sống chết mặc bay” mà còn bóc lột họ nữa.
Ông còn kể một hai câu chuyện về những cơ cực của những người đi vùng kinh tế mới này. Tôi không dẫn hết ra đây, nhưng đại loại là nơi họ sống:
… là một khu rừng cỏ tranh không có kinh rạch gì cả, không làm ruộng được, phải phát cỏ tranh, đào giếng (sâu 6 thước) để lấy nước uống, mà nước thì đục ngầu… Họ chịu đựng được non ba năm… hết chịu nổi… Cái chòi một mái chỉ có 6 thước vuông, một cái giường, một cái võng. Mẹ và bốn con ngủ trên giường (vì hai đứa con đã gởi người bà con nuôi dùm), dưới gầm là một con heo lớn, một con heo con, chung quanh là một bầy gà. Chồng ngủ võng. Trời nắng thì ngủ ngoài trời được. Không có bếp, cầu tiêu, nước uống là nuớc trong một cái hầm đào để đắp nền nhà… Cảnh một gia đình công chức hồi hưu (tôi chỉ nghe nói chứ không được biết) còn bi đát hơn gia đình đó nữa… về Sài Gòn thì không có hộ khẩu, không có chỗ trú chân, phải đi xin ăn, ở nhờ bạn, nay nhà người này, mai nhà người khác.
Kết quả của chính sách kinh tế mới là cảnh sống cầu bơ cầu bất của người bị cướp nhà:
Và hiện nay nhiều đường ở Sài Gòn đầy những người ở kinh tế mới về, vô gia cư, vô nghề nghiệp, ban ngày đi xin ăn, làm cu li hay ăn cắp, đêm ngủ vỉa hè, hoặc dưới mái chợ... Khắp các tỉnh đâu đâu cũng có tình cảnh đó.
Sự dốt nát của cán bộ nông thôn lúc bấy giờ:
Một nguyên nhân thất bại nữa của chính sách nông nghiệp là thiếu kĩ thuật gia giỏi… từ ngày 30-4-75, các công tác thuỷ lợi hầu hết do các cán bộ nông thôn mới học hết cấp I (hết tiểu học) điều khiển. Các đồng chí ấy bất chấp kinh nghiệm của nông dân, đã dốt mà lại độc đoán… Cán bộ của mình không được học, không biết tính toán gì cả (một cán bộ tài chánh xã mà không biết chia 72 cho 24), mạnh làng nào làng ấy đào, chẳng hề xét hậu quả gì bất lợi cho làng bên hay không; và kết quả nhiều khi trái ngược với ý muốn… Người ta đào kinh rất nhiều, miền nào cũng khoe đào được mấy chục con kinh, mấy trăm cây số kinh trong một mùa nắng. Có tốn kém gì đâu. Chỉ cần bắt thanh niên làm xâu, làm càng nhiều càng được tiếng “vinh quang”. Tới nỗi có miền dân phải ta thán, đặt ra câu ca dao này:
Mồ cha thằng Thiệu dời dinh,
Để tao ở lại đào kinh suốt đời.
Tập cho thanh niên lao động chân tay, góp sức vào việc kiến thiết quê hương là điều tốt, nhưng người ta phí sức dân quá. Dân do đó thấy tủi cho thân phận mình: trong thời chống Pháp, chống Mĩ, dân hi sinh cho anh em kháng chiến, bây giờ bị coi như nô lệ.
Dưới sự lãnh đạo và điều khiển của những “cán ngố” - cứ tưởng thắng Mĩ được một ván cờ chính trị thì đã khoe khoang tự cho mình là bá chủ ‘đỉnh cao trí tuệ’ - những người thất trận, kể cả người dân miền Nam, đều bị đối xử như là hạng bần cùng, hạ cấp. Điều đó dễ hiểu.
Công nghiệp
Tình trạng công nghiệp Việt Nam tệ hại đến nỗi:
Xí nghiệp quốc doanh nào cũng lỗ nặng… Từ bia, nước ngọt, đến tôm cá, đồ hộp như khóm, màn trúc, quần áo may sẵn, đồ sơn mài… bất kì món gì, mới đầu phẩm còn kha khá, sau cứ mỗi ngày một tệ, bị ngoại quốc gửi trả về… Tôi hỏi một người bà con ở Hà Nội, họ bảo ở Bắc cũng vậy: công nghiệp mỗi ngày một xuống dốc…
Nguyên nhân rất nhiều: quản lí dở, thiếu kĩ thuật gia giỏi… thiếu nguyên liệu, nhiên liệu, thiếu đủ thứ… không có tinh thần trách nhiệm, ai cũng làm việc tà tà… Ngoài Bắc có câu: “Làm thì đói, nói thì no, bồ thì sướng, bướng thì chết”, trong Nam lại thêm câu: “Làm cho lắm tắm không quần thay, làm lai rai ngày thay hai ba bộ.”
Đảng Cộng sản là đảng của vô sản, của thợ thuyền, mà công nhân trong các xưởng tinh thần như vậy đó.
Tình trạng các công ti lớn:
Các công ti công tư hợp doanh cũng lỗ vì công với tư rất khó hợp tác với nhau: công làm chủ thì tư tà tà, mà công thì quản lí rất dở, kĩ thuật kém, nghi kị tư, bao nhiêu quyền lợi, ôm lấy trọn.
Số phận của các công ti nhỏ cũng không khá hơn:
Các tổ hợp làm tiểu công nghệ của tư nhân như tổ hợp làm màn trúc, tranh sơn mài, đan áo, thêu, may áo… lay lắt sống được là may, đa số phải ngưng hoạt động vì xuất khẩu không được, bán trong nước cũng không được…
Do đó nước mình trước kia tự hào là tiền rừng bạc bể mà nay đứng vào hàng 10 nước nghèo nhất thế giới, có người nói vào hàng áp chót trên thế giới nữa. Lợi tức trung bình mỗi năm tính theo đầu người chỉ được 50 Mĩ kim, hai phần trăm của Nhật.
Ông chắc không bao giờ ngờ là hơn 60 năm sau, dưới sự lãnh đạo ưu tú của Đảng Cộng sản Việt Nam, GDP của dân Việt Nam còn thấp hơn cả dân… Thái Lan!
Phân phối
Xuất cảng chỉ còn than đá, xi măng, cao su – hơn hay kém trước tôi không biết - những hàng lặt vặt như bia, đồ hộp, tranh sơn mài, tôm… thì không đáng kể, mà mỗi năm một suy như đã nói ở trên. Nhập cảng cũng rất ít vì thiếu ngoại tệ, cho nên thứ gì cần lắm như xăng, nhớt, bột mì, máy móc mới bất đắc dĩ phải nhập khẩu; ngay đến dược phẩm cũng đành chịu thiếu thốn.
Đánh tư bản
Đây là một trong những độc chiêu đầu tiên cộng sản Việt Nam hành xử ngay trong những ngày tháng đầu ở miền Nam:
Hồi 30-4-75, ai cũng biết tư bản sẽ bị đập, thương mãi bị dẹp. Cho nên khi chính quyền ra lệnh các nhà buôn, nhà kinh doanh có môn bài, cửa tiệm phải đăng kí (kê khai), còn những thứ hàng nào, mỗi thứ bao nhiêu, giá bao nhiêu… (các người cho thuê nhà cũng phải khai) thì những người thức thời làm bản kê khai rồi tặng chính phủ. Trái lại, một nhà xuất bản và nhà sách khác lớn hơn nhiều, tin rằng mình làm ăn đứng đắn, quen nhiều nhà văn cách mạng, sẽ được yên, nên chỉ tặng chính phủ một phần nhỏ tài sản thôi và rốt cuộc mất gần hết nhẵn mà lại phải đi cải tạo mấy năm…
Chiến dịch kiểm kê đầu tiên để đập tư bản xẩy ra cuối năm 1976. Chính phủ đã chuẩn bị kĩ lưỡng, dùng rất nhiều sinh viên, thanh niên, nhốt họ trong trường hay trong cơ quan, không cho về nhà, không cho tiếp xúc với người ngoài, dạy cho họ trong một tuần (?) cách thức kiểm kê ra sao, phát giác những chỗ giấu đồ ra sao - nhất là vàng, kim cương - của bọn tư bản. Thành phố xôn xao dữ dội… Sau vụ đó, một số người bỗng hoá ra giàu. Hậu quả là tài sản của giới này chuyển qua giới khác một phần lớn, chính phủ được hưởng một phần nhỏ.
Ta thấy ngay là mục đích và thành quả của vụ đánh tư bản không khác gì với vụ đổi tiền. Vì vậy, sau đó, dĩ nhiên là cũng phải có màn đánh tư bản tập nhì:
Kết quả lần đầu đó được khả quan nhưng chưa được mãn ý, hai năm sau - 1978 – chính phủ đập một vố nữa: kiểm kê những nhà đã kiểm kê rồi, cả những nhà đã trả môn bài, cống hiến một phần gia sản, xem họ còn giấu gì hay không. Lần này kết quả không được tốt đẹp lắm mà hình như có trường hợp lạm quyền…
Chợ trời
Buôn bán chợ trời trong thời gian đó là một cách duy nhất để dân miền Nam sinh sống, vì thế:
Các tiệm lớn bị đóng cửa càng nhiều thì chợ trời càng phát đạt, càng đông, có đủ mặt hàng. Tất cả các tỉnh, các quận, đâu có buôn bán là đó có chợ trời… Cảnh sát lại đuổi họ thì họ chạy đi, cảnh sát đi khỏi rồi thì họ tụ trở lại, y như một bầy kiến bị ném một cục đá… Họ đông quá, nhiều người thất nghiệp quá, phải kiếm ăn cách đó…
Chợ trời giúp cho cách mạng được nhiều: cán bộ ngoài Bắc vào mua đồng hồ, máy thâu thanh, ti vi, tủ lạnh, xe đạp, giầy dép, quần áo… cơ quan nào cần cái gì thì cứ ra chợ trời, từ chiếc quạt máy, cái máy tính, dụng cụ y khoa, thuốc tây, đến cây bút bi… nếu không mua ở chợ trời thì mua ở đâu?
Và nhà nước ra tay cấm cản, thu dọn các chợ trời tưng bừng, nhưng không sao dẹp được (nếu dẹp hết đi thì dân làm sao mà sống được?), đành chịu thua:
Từ khi trung ương ra lệnh “không ngăn sông cấm chợ”, chợ trời được thể, phát triển càng mạnh.
Theo tôi, đây là dấu hiệu của cái vòng luân hồi như ông đã viết dưới đây:
Tháng 8-1981 chính quyền mới ra lệnh dẹp hết các sạp thuốc tây, bắt họ phải mở tiệm, có dược sĩ kiểm soát để khỏi bán đồ giả. Phải có vốn lớn mới thuê nhà, mở tiệm, mướn dược sĩ được - nếu có đủ dược sĩ – như vậy là trở về chế độ tư bản trước 1975 rồi. Cái vòng luẩn quẩn.
Vậy thì kinh tế tư bản đã bắt đầu được áp dụng trở lại từ lúc đó rồi. Và càng mạnh hơn về sau này, đến nay, nó được nguỵ trang dưới một cái danh hiệu mới mẻ nhưng không kém phần quái đản: kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa!
Phân phối nhu yếu phẩm
Năm 1975, trong nước còn nhiều sản phẩm nên mỗi tháng mỗi người dân ở thành phố được mua đủ gạo ăn, một hay nửa kí đường, một ít thịt cá, xà bông, dầu lửa…
Năm 1979, sản phẩm trong nước cạn dần, chính phủ phân phối cho dân được rất ít: gạo, bo bo, mì sợi may ra còn được đủ, còn những thứ khác thì năm thì mười hoạ mới được một chút ít… nhưng hạng cán bộ cao cấp có tiêu chuẩn riêng, có “bìa”, thì được phân phối quá đầy đủ…
Đó là chính sách chung của các nước trong phe chủ nghĩa xã hội… Việt Nam y hệt Nga và còn thua Trung Hoa một bực. Ở Trung Hoa, Mao chia giới cán bộ thành 30 cấp (thời Chiến quốc, Trung Hoa chỉ có 10 cấp thôi, theo sách tả truyện), mỗi cấp có tiêu chuẩn, đặc quyền riêng...
Phần này ông viết khá dài, ông có kể chuyện phong liêu, quan cách ở Trung Hoa ra sao, chuyện “Chính phủ lại bắt dân hùn tiền lập hợp tác xã tiêu thụ” mà sau đó: “Mỗi năm tính lời một lần, số lời đem ‘tặng’ chính phủ một phần lớn, còn bao nhiêu chia cho xã viên, nhưng không cho rút ra, mà chẳng được bao nhiêu, nên không ai xin rút ra”. Và câu kết luận là:
Cách thức phân phối rất bất tiện cho dân.
Hồi ký Nguyễn Hiến Lê (2)
Giáo dục – văn hoá
Giáo dục
Đoạn đầu này, ông viết về nền giáo dục Việt Nam lúc đó như sau, không biết được rằng bây giờ học phí ở bậc tiểu học không còn miễn phí nữa, mà còn tăng lên một cách phi mã, khiến việc lo kiếm tiền cho con em đi học là cả một chật vật lớn lao đối với những bậc phụ huynh; còn bậc đại học thì hiện nay sinh viên không kham nổi học phí, đã có tình trạng “học chui”:
Chính quyền rất coi trọng giáo dục, mở rất nhiều nhà trẻ, trường học từ mẫu giáo tới đại học. Giáo dục mới đầu hoàn toàn miễn phí, do đó có vẻ rất bình đẳng. Ở đại học, sinh viên nào cũng được trợ cấp mỗi tháng 18 đồng, tuy không đủ, nhưng cũng đỡ cho cha mẹ. Dĩ nhiên phải như vậy, nếu không thì không ai cho con học đại học được. Các đồng bào thiểu số cũng được dạy dỗ như người Kinh, đó cũng là điểm đáng khen nữa.
Dưới bất cứ chế độ nào, bất cứ ở đâu, trẻ em là mầm non của dân tộc, dễ uốn nắn. Vì thế, bài học đầu tiên ở dưới chế độ cộng sản Việt Nam là:
Trẻ em được cưng nhất, được coi là cháu Bác Hồ… Và người ta dạy (các em) phải ghi ơn Bác Hồ trước hết… Và cô chỉ hình Bác Hồ cho chúng coi. Chúng tiu nghỉu, chẳng hiểu gì cả. Bác Hồ là ai? Chúng đã gặp lần nào đâu? Có bồng bế chúng lần nào đâu? Có mua kẹo bánh cho chúng đâu? Cha mẹ các em đó nghe con kể vậy, bất bình, có người không cho con tới lớp nữa. Họ không hiểu đường lối cách mạng, lạc hậu quá.
Chương trình học:
Học mẫu giáo một hai năm, sáu tuổi lên cấp I, năm năm sau lên lớp 6, cấp II, khỏi thi. Lên lớp 10, cấp III thì phải thi.
Phương thức dạy học:
… sách giáo khoa mà sai – và vẫn thường sai - chẳng hạn bảo Sài Gòn nằm trên bờ sông Cửu Long thì tất cả các giáo viên cũng phải dạy sai như vậy, không được phép sửa; rồi báo cáo lên ti, ti lên bộ. Chỉ có bộ mới có quyền sửa sai, và phải hai ba năm sau, in sách mới, người ta mới sửa. Tôi thấy kì cục quá, không tin nổi, năm sau hỏi một giáo sư đại học Hà Nội, ông xác nhận là đúng: cái gì Bộ Giáo dục in thì phải coi là pháp điển, phải tuân theo triệt để.
Do đó, “thành quả” của nền giáo dục trong chế độ cộng sản nói chung, và ở Việt Nam nói riêng:
Tôi hiểu chính sách của người ta rồi: luyện tinh thần kỉ luật, làm tiêu ma óc phán đoán, ý chí cá nhân; và tôi không trách một đứa cháu tôi ở Hà Nội, một cán bộ cao cấp, vào hạng trí thức, năm nay trên 60 tuổi, có tú tài Pháp hồi thế chiến thứ nhì mà không có một chút tinh thần phê phán nào hết, trên nói sao thì tin vậy, đúng như người Pháp nói; có thể “avaler touts sorts de couleuvres”.
Chính sách giáo điều nói trên bây giờ vẫn y hệt như vậy, con người trong một xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đào tạo để nghe theo lời đảng dạy một cách máy móc, thiếu hẳn tư duy.
Đặc biệt ở miền Nam Việt Nam:
Muốn vô đại học thì sức học không quan trọng bằng lí lịch… Ra trường chắc chắn được bổ dụng… Thủ trưởng bắt làm gì cũng phải làm: cán sự điện tử mà làm lao công, dược sĩ mà giữ kho… Vì tất cả những lẽ trên, ở Nam thanh niên chán học, số học sinh lớp 12 kém xa năm 1974…
Một thí dụ về những học viên trong “chương trình giáo dục tiền tiến” này:
Một điểm tấn bộ là chính quyền mở nhiều lớp bổ túc văn hoá cho công nhân viên, cán bộ… Có đủ các cấp I, II, III. Vài cán bộ y sĩ, dược sĩ bốn năm chục tuổi, thời kháng chiến không được học, nay học bổ túc từ lớp tư, lớp năm… Học xong mỗi khoá phải thi. Nhưng thi rất dễ. Nghe nói có thầy đọc câu trả lời cho thí sinh chép, vì bắt những cán bộ mấy chục tuổi đảng thi lại hoài thì cũng kì, mà lại bị cấp trên trách là không biết dạy. Tiện hơn hết là cho đậu bừa đi. Ai cũng biết đó chỉ là hình thức. Có dược sĩ trình độ mới tới lớp tư, học rút trong hai năm hết lớp 10, như vậy đủ rồi. Một nhân viên công an cấp cho tôi giấy phép đi đường một tháng mà đề từ 31-1 đến 31-2-1980.
Văn hoá
Có lẽ việc quan trọng cần phải làm cấp kì và kĩ lưỡng nhất sau khi cưỡng chiếm miền Nam là tận diệt, xoá tan đi một nền văn hoá mà cộng sản miền Bắc cho là nguy hiểm, phản động:
Một trong công việc đầu tiên của chính quyền là huỷ tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của Bộ Văn hoá nguỵ, kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Quí Đôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyễn Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt.
Vụ đốt sách báo miền Nam thứ nhất:
Năm 1975, Sở Thông tin Văn hoá TP Hồ Chí Minh đã bắt các nhà xuất bản hễ sách nào còn giữ trong kho thì phải nạp hai hay ba bản để kiểm duyệt… ra chỉ thị cho mỗi quận phái thanh niên đi xét sách phản động, đồi truỵ trong mỗi nhà để đem về đốt. Bọn thanh niên đó đa số không biết ngoại ngữ, sách Việt cũng ít đọc, mà bảo họ kiểm duyệt như vậy thì tất nhiên phải làm bậy. Họ vào mỗi nhà, thấy sách Pháp, Anh là lượm, bất kì loại gì; sách Việt thì cứ tiểu thuyết là thu hết, chẳng kể nội dung ra sao. Họ không thể vào hết từng nhà được, ghét nhà nào, hoặc công an chỉ nhà nào là vô nhà đó.
Vụ huỷ sách miền Nam thứ nhì:
Lần thứ nhì năm 1978 mới làm xôn xao dư luận. Cứ theo đúng chỉ thị “ba huỷ”, chỉ được giữ những sách khoa học tự nhiên, còn bao nhiêu phải huỷ hết, vì nếu không phải là loại phản động (một huỷ), thì cũng là đồi truỵ (hai huỷ), không phải phản động, đồi truỵ thì cũng là lạc hậu (ba huỷ), và mỗi nhà chỉ còn giữ được vài cuốn, nhiều lắm là vài mươi cuốn tự điển, toán, vật lí…
Và dứt điểm là:
… năm 1978, chính quyền Bắc chẳng những tán thành công việc huỷ sách đó mà còn cho là nó chưa được triệt để, ra lệnh huỷ hết các sách ở trong Nam, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kĩ thuật, các tự điển thôi; như vậy chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lí, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của ông cha mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh phụ ngâm… in ở trong Nam đều phải huỷ ráo.
Một thí dụ điển hình mà chính ông là nạn nhân:
Một độc giả lập một danh sách các tác phẩm của tôi mà ông ta có trong nhà, đem lại Sở Thông tin hỏi thứ nào được phép giữ lại, nhân viên thông tin chẳng cần ngó tên sách, khoát tay bảo: Huỷ hết, huỷ hết.
Có lẽ mục đích của cuộc phá huỷ văn hoá miền Nam là tận diệt cho sạch tàn dư Mĩ nguỵ và để cho văn hoá miền Nam được “tiến” lên ngang hàng với văn hoá miền Bắc. Mà cái văn hoá đó thì ông đã đánh giá nó như sau:
Sau ngày 30-4-75, tôi muốn tìm hiểu cách mạng Nga từ 1917 đến 1945, nhờ mấy bạn cách mạng tìm sách cho, họ bảo chính họ cũng không được đọc vì không thấy một cuốn nào cả. Sau tôi mới biết rằng loại đó ngay ở Nga cũng không ai được phép viết. Như vậy kiến thức hạng trí thức ngoài đó ra sao, ta có thể đoán được…
Một cán bộ khác cho tôi hay ở Hà Nội người nào có được 50 cuốn sách là nhiều rồi. Anh ta mới thấy ba trong số 9 tủ sách của tôi đã bảo nhà tôi nhiều sách như một thư viện. Nhà bác học Sakharov trong một bài báo tôi đã dẫn, bảo ở Nga không có đời sống tinh thần (vie intellectuelle). Chúng ta có thể tin lời đó được.
Và đây là trí thức của tầng lớp cán bộ văn hoá chỉ huy:
Một nhà văn hợp tác với Viện Khoa học Xã hội lại nhờ tôi giới thiệu cho mươi nhà văn, học giả giỏi tiếng Anh và tiếng Việt để dịch cho viện bộ Bách khoa tự điển Anh gồm 25 cuốn, mà phải dịch gấp vì đó là chỉ thị của một ông “bự”. Tôi bảo có 50 nhà dịch cũng không làm nổi vì phải tạo hằng ức danh từ mới (riêng ngành Informatique trong 30 năm nay đã có một vạn thuật ngữ rồi); mà ví dụ có dịch nổi thì cũng phải mất ít nhất mười năm mới xong; xong rồi lại phải dịch lại hoặc bổ túc rất nhiều vì lỗi thời mất rồi: ở Anh, mỗi năm người ta sửa chữa, bổ túc, in lại một lần; rồi lại phải bỏ cả chục năm nữa, không biết có in xong được không. Xong rồi, bán cho ai, ai đủ tiền mua? Cán bộ văn hoá vào hàng chỉ huy mà dốt tới mức đó!
Trị dân mà không biết một chút gì về tình cảnh của dân cả. Họ có vận dụng trí óc của họ không?
Kẻ cai trị mà như vậy thì người bị trị như thế nào?
Còn hạng nông dân ngoài Bắc thì khờ khạo, ngớ ngẩn so với nông dân trong này không khác gì một người ở rừng núi với một người ở tỉnh. Mấy anh bộ đội bị nhồi sọ, trước 1975 cứ tin rằng miền Nam này nghèo đói không có bát ăn, sau 30-4-75, vô Sài Gòn, loá mắt lên, mới thấy thượng cấp các anh nói láo hết hoặc cũng chẳng biết gì hơn các anh.
Hậu quả của chính sách văn hoá ngu dân, nhồi sọ:
Tóm lại, chính sách là chỉ cho dân được nói theo một chiều, trông thấy một hướng; nên chỉ một số rất ít giữ được tinh thần phê phán, nhưng chẳng thi thố được gì, sống nghèo khổ, bất mãn.
Y tế
Dân trong ấp, xã bị bệnh thì lại họ (nhân viên y tế nông thôn) trước, họ không trị được thì đưa ngay lên quận; quận có bác sĩ đa khoa, trị không được thì đưa ra tỉnh; tỉnh có bác sĩ chuyên khoa, đủ dụng cụ, đủ thuốc… Lần lần nhân viên y tế nông thôn vừa làm việc vừa học thêm, có thể lãnh trách nhiệm quan trọng hơn, đưa lên giúp việc ở quận. Chính sách đó rất họp lí và chính quyền mình cũng đã áp dụng nó. Đó là một điểm tấn bộ.
Trình độ nhân viên y tế:
Nhưng vì chiến tranh, nhân viên y tế các cấp của mình da số ít được học, nên chúng ta thấy những y sĩ (y sĩ Bắc có quyền ra toa, nhưng kém bác sĩ một bực), học chỉ tới lớp năm (hết cấp I), chỉ biết dăm chục tên thuốc, không biết đo huyết áp, không biết thế nào là đau mắt hột… chỉ đáng làm một nhân viên y tế nông thôn thôi. Còn bác sĩ được đào tạo ở Bắc thì xét chung, sự hiểu biết cũng kém xa bác sĩ đào tạo ở Nam… Nhân viên y tế nông thôn cũng thiếu, tinh thần trách nhiệm rất thấp: một huyện nọ người ta tiêm thuốc ngừa dịch tả cho ba người lớn và chín trẻ em thì tám trẻ chết.
Tình trạng của nền y tế lúc đó:
Tệ nhất là nạn thiếu thuốc, thiếu cả thuốc đỏ, thuốc tím, do đó sinh ra nạn ăn cắp thuốc, ra toa cho người không có bệnh để họ bán thuốc chợ đen.
Nhưng:
Cũng may mà có hằng trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gửi thuốc về giúp thân nhân, nếu không sức khoẻ của dân sa sút không biết tới đâu.
Vậy mà những kiều bào đó, lúc đó và ngay cả gần sau này, đều bị chửi là trốn nước cầu vinh, từ bỏ quê hương, không chịu ở lại cùng khổ với nhân dân để kiến thiết đất nước!
Tệ nhất là nạn thiếu vệ sinh… từ cơ quan tới đường sá, tư gia, đâu đâu cũng dơ dáy… Nhiều cơ quan nuôi gà, heo ngay trong phòng của họ, và từ trên lầu thượng họ trút nươc dơ xuống đường. Phòng bệnh nhân trong các bệnh viện hôi hám không chịu nổi; phải bịt mũi khi đi tới gần cầu tiêu… người ta phóng uế đầy đường.
Một hí kịch của nhà nước:
Gần cuối kế hoạch năm năm đầu tiên (1976-1980), người ta làm một “chiến dịch” vệ sinh để “dứt điểm” và người ta lựa ngay khu sạch sẽ nhất trong thị xã làm “thí điểm”, phái một nhóm người đi xịt thuốc DDT cho từng nhà; thuốc đã pha loãng nhiều rồi mà lại chỉ xịt vài phòng tối, vài bụi cây thôi. Không cần xem xét chỗ chứa rác, cầu tiêu. Thế là xong chiến dịch, có thể báo cáo lên trung ương là đã dứt điểm.
Xem xong thì ông phải lên tiếng than:
Chính sách, đường lối tuy đúng mà thiếu người, thiếu phương tiện, thiếu tinh thần thì cũng hoá dở.
Chính sách, đường lối lúc ấy không biết có đúng hay không, nhưng chính sách, đường lối y tế bây giờ là lập lòe đánh lận con đen, dịch tả đang lan tràn thì nói trại đi là dịch “tiêu chảy cấp”.
Tư pháp
Tình trạng sinh viên miền Nam sau 1975:
Từ năm 1975, trường luật bị bãi bỏ. Sinh viên luật có thể xin chuyển qua ngành kinh tế, ra làm các ngân hàng. Nhưng đa số bỏ học, làm phu khuân vác, đạp xích lô… Đó là chuyện 1975. Nay thì thanh niên trí thức làm đủ các việc lao động rồi, bổ củi mướn, chở cát, vác gạo…, không ai ngạc nhiên, mà cũng không ai thương hại cho họ nữa, họ dễ dàng kiếm được vài ba chục đồng một ngày mà lại tự do, chứ không làm thư kí ngân hàng 40 đồng một tháng thì sống sao nổi. Vả lại lao động là vinh quang mà. Nữ sinh viên thì bán thuốc lá rời hoặc quần áo cũ ở lề đường.
Tình hình ngành tư pháp sau năm 1975:
Trong Nam trước năm 1975 chưa có bộ luật mới, tạm dùng bộ luật cũ. Còn ở Bắc bỏ luật cũ mà không có luật mới (nghe nói năm 1981 người ta mới tính thảo bộ luật mới), không có trường luật thì tôi không hiểu người ta dạy xử án ra sao.
Ông kể một vài thí dụ về những vụ xử sau năm 1975:
Năm 1975 có lần tổ chúng tôi họp để xử một người trong tổ mắc một tội nào đó tôi không nhớ. Ông tổ trưởng đề nghị hai cách trừng trị… Cách nào được nhiều người đồng ý thì theo cách đó… Khi phường có toà án nhân dân rồi (năm 1978?) thì để toà xử. Một “ông toà” là học trò cũ của một bạn tôi. Tôi hỏi cậu ta: “Cháu xử theo luật nào?” Cậu ta cười, đáp: Cháu đặt ra luật để xử - Thực vậy sao? - Dạ, bây giờ ai đặt luật cũng được. Vì có bộ luật nào đâu?
Tuy nhiên:
Cũng có luật sư do chính quyền chỉ định để bênh vực cho bị cáo… Chính phủ bênh vực giai cấp vô sản; hạng bần dân dù bị tội nặng cũng xử nhẹ - trừ tội phản động dĩ nhiên.
Và:
Hiến pháp vẫn trọng quyền tư hữu nhỏ, nhưng đảng còn trọng lập trường giai cấp hơn. Giai cấp được trọng nhất là giai cấp đảng viên, như giai cấp quí tộc đời Chu ba ngàn năm trước… Giai cấp yên thân nhất là giai cấp vô gia cư, vô nghề nghiệp.
Không khác gì chế độ phong kiến hồi xưa! Câu cuối của ông khiến cho ta phải ngừng đọc mà suy nghĩ, nghiền ngẫm thêm một tí…
Ngoại giao
Về ngoại giao nước mình đã đứng hẳn về phe cộng sản. Như vậy các nước tư bản ngại không muốn đầu tư vào Việt Nam mà sự phát triển kinh tế sẽ chậm.
Đó là nguyên nhân khởi thuỷ của màn suy sụp kinh tế trong những năm 1975-1985. Tình hình ngoại giao với mấy nước anh em sát biên giới cũng không khá hơn:
Có người lại bảo tại mình mới thắng được Mĩ, mình đã muốn làm chủ cả bán đảo Đông Dương… Khi Miên, Việt hục hặc với nhau ở biên giới (nghe nói từ đầu năm 1976?) thì tôi đã ngạc nhiên; rồi đầu năm 1979, Trung Hoa đem quân tàn phá mấy tỉnh cực bắc của mình thì ai cũng chán nản, kể cả một số bạn của tôi ở Bắc. Thế này thì tình anh em trong thế giới cộng sản cũng chẳng đẹp gì hơn tình giữa các nước tư bản với nhau ư?...
Vậy là chiến tranh thứ nhì của dân tộc mình mới chấm dứt được vài năm thì chiến tranh thứ ba đã bắt đầu. Từ cách mạng tháng 8 năm 1954 đến nay đã trên 35 năm rồi, gần như chiến tranh liên miên, bây giờ phải chịu hoạ binh đao mấy chục năm nữa? Khắp thế giới không có dân tộc nào khổ như mình. Công việc kiến thiết quốc gia đành chậm lại nữa, kinh tế sẽ xuống dốc nữa.
Cũng may Đảng ta đã “sáng suốt” dâng đất, nhường biển cho Trung Hoa nên sau đó chúng mới để đảng ta yên mà thực hiện chính sách “đổi mới” hầu củng cố địa vị độc tôn, nắm đầu thắt cổ nhân dân cho tới bây giờ. Nhưng sau đó thì hậu quả lại khôn lường, lúc biết ra thì lòng dân sôi sục, thanh niên sinh viên học sinh tự phát biểu tình đòi chủ quyền tại Hoàng Sa - Trường Sa thì bị ngăn cấm, bắt bớ, đàn áp. Đảng chỉ sợ đàn anh phật lòng mà không coi trọng đến tình cảnh nhân dân uất ức trước nỗi nhục mất đất, trước nỗi đau bị cướp đi tài sản thiêng liêng của tổ tiên để lại.
Tôn giáo
Ông viết rất ít về phần này. Tôi xin ghi hết cả ra đây:
Về tôn giáo, chính sách của chính phủ là tôn trọng tự do tín ngưỡng, miễn là các giáo phái yên ổn tụng niệm.
Mấy năm đầu có vài sự bất hoà, xung đột nhỏ, dẹp được ngay (bắt một số tu sĩ Công giáo và Phật giáo), và hai ba năm nay chính quyền trả lại chùa chiền cho giáo hội, không dùng làm nơi hội họp nữa; ở vài nơi tín đồ tới chùa khá đông, rất ít đàn ông. Nhiều nhà tu hành hoàn tục để mưu sinh. Cũng có một số vượt biên. Không còn hạng khất sĩ nữa, họ tự giải tán, mỗi người đi mỗi nơi để kiếm ăn.
Có thể nói chính sách của mình cởi mở hơn Trung Hoa.
Đảng viên không được theo tôn giáo, cũng không được cúng tổ tiên, nhưng được phép “tưởng niệm” (sic) mà không đốt nhang, không vái, ai muốn làm giỗ ông bà thì phải đóng cửa làm lén.
Bây giờ thì ta đã biết rồi: linh mục thì bị bỏ tù, hoà thượng thì bị theo dõi. Phật giáo thì bị chia làm hai, phe không nghe lời của đảng thì bị cấm hoạt động. Công giáo thì bị đặt điều bởi chủ tịch nhà nước qua báo chí của đảng, bằng cách đút vào miệng chủ tịch nhà nước những câu tuyên bố láo khoét.
Chương XXXIII - Kết quả sau 5 năm
Thất bại trong hoà bình
Đây là chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam áp dụng với dân chúng miền Nam sau năm 1975:
Muốn kiến thiết thì trước hết phải san phẳng chế độ cũ cái đã, không để lại một dấu vết nào cả. Phải đuổi hết các nhân viên cũ, để anh em cách mạng chia nhau tất cả các chức vụ lớn nhỏ. Phải diệt bọn tư bản, chiếm nhà cửa, tài sản như núi của họ, chia nhau mỗi người một chút. “Đó là quyền của mình mà!”
Bây giờ 5 năm sau ngày 30-4-75, hết kế hoạch ngũ niên đầu tiên rồi, chúng ta mới thấy cơ hồ chẳng tiến bộ về một phương diện nào hết mà còn thụt lùi nữa, và ai lạc quan tới mấy cũng phải nhận chúng ta đã bỏ phí 5 năm, và không biết phải mấy năm nữa mới bắt lại được thời gian đã mất đó. Trong khi ấy thì thế giới cứ vùn vụt tiến tới.
Ông đưa ra bốn cái thất bại của nhà nước đương thời cùng những lí do của nó. Cái thất bại thứ nhất:
Thất bại lớn nhất, theo tôi là không đoàn kết được quốc dân. Tháng 5-1975, có ít nhất là 90% người miền Nam hướng về miền Bắc, mang ơn miền Bắc đã đuổi được Mĩ đi, lập lại hoà bình, và ai cũng có thiện chí tận lực làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ sáu bảy tháng sau, cuối năm 1975 đã có đa số người Nam chán chế độ ngoài Bắc, chán đồng bào Bắc…
Nguyên nhân chính theo tôi là người miền Bắc vơ đũa cả nắm, coi người Nam là “nguỵ” hết, truỵ lạc, bị nhiễm độc nặng của Mĩ. Ngay hạng trí thức miền Bắc như ông Đào Duy Anh cũng có thành kiến là dân Sài Gòn hư hỏng quá rồi. Họ chỉ nhìn bề ngoài… Bọn thanh niên hư hỏng ở Sài Gòn mới có nhiều, mà tỉ số không cao so với những thanh niên đứng đắn.
Sự khinh rẻ giữa Bắc - Nam:
Người Bắc coi người Nam là nguỵ, đối xử người Nam như những thực dân da trắng đối với dân “bản xứ”, tự cao tự đại, tự cho rằng về điểm nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được Mĩ thì cái gì cũng làm được. Chỉ cho họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt miệng người ta bằng câu: “Tôi là kháng chiến, anh là nguỵ thì tôi mới có lí, anh đừng nói nữa”. Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng chiến, cách mạng đó, được Hồ Chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng những dốt về văn hoá, kĩ thuật - điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh, họ không được học – thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài bẩy nhau… Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là nguỵ nữa, vì nguỵ có tư cách hơn kháng chiến. Và người ta đâm ra thất vọng khi thấy chân diện mục của một số anh em cách mạng đó, thấy vài nét của xã hội miền Bắc: bạn bè hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái không dám nhận cha mẹ, học trò cấp II đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú… Thì ra: “Nhìn xa ngỡ tượng tô vàng…”
Và trong chăn mới biết có rận:
Ngay giữa các đồng chí cũng không có tinh thần đoàn kết…Chính vì thiếu đoàn kết nên trong cuộc hội họp nào người ta cũng hô hào “Đoàn kết, đại đoàn kết”. Còn ở trong phòng họp thì ai cũng hoan hô tinh thần đoàn kết, ra khỏi phòng rồi thì hết đoàn kết. Người ta chỉ đoàn kết với nhau vì quyền lợi thôi; do đó mà có tinh thần bè phái, gia đình trị, và miền Bắc có câu này: nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế.
Cái thất bại thứ nhì:
Điểm thứ nhì làm cho chúng ta thất vọng là xã hội còn bất công hơn hồi trước nhiều.
Sự bất công (cũng như tham nhũng) xẩy ra đầy rẫy trong xã hội, suốt cả chiều ngang lẫn chiều dọc, điển hình là:
Có người nói một số “ông lớn” đi đâu cũng có người hầu xách bình nước sâm Cao Li để ông lớn uống thay trà; một ông nọ luôn luôn có một bác sĩ ở bên và một thiếu nữ quạt hầu vì ông không chịu được quạt máy. Tôi không biết những tin đó đúng hay không, chỉ biết những tin đó do “anh em cách mạng” đưa ra cả...
Sài Gòn đưọc giải phóng vài năm thì ta thấy xuất hiện ngay một hạng giàu sang mới nổi, thay thế bọn giàu sang thời Thiệu,, và cũng thích những xa xí phẩm (áo hàng thêu, hột xoàn, máy điều hoà không khí v.v…) của thời Thiệu. Tiền đâu mà họ mua những thứ đó nhỉ?
Sự bất công chướng nhất, tàn nhẫn nhất là lương công nhân viên từ năm 1975 cứ đứng yên trong khi sự phân phối nhu yếu phẩm giảm đi gần hết, chỉ còn gạo, bo bo là tạm đủ, nhất là trong khi mãi lực của đồng bạc năm 1980 chỉ còn 1/10 năm 1975; thành thử lương một công nhân viên chỉ đủ để mua củi chụm, lương một bác sĩ mới ra trường chỉ đủ để mua rau muống ăn. Khắp thế giới không đâu có chế độ lương bổng như vậy. Người nào cũng phải bán đồ đi mà xài, nhờ cha mẹ giúp đỡ, nếu không thì phảo xoay xở mọi cách, làm sao sống được thì làm, chính phủ không biết tới. Một cán bộ ở Hà Nội đã phàn nàn: “Người ta có rất nhiều quyền hành mà không có một chút tinh thần trách nhiệm nào cả. Thật lạ lùng!”
Cái thất bại thứ ba:
Không ai có trách nhiệm mà tinh thần bè phái quá nặng nên không có kỉ luật, dưới không tuân trên, loạn.
Nguyên nhân là cán nặng hơn gáo, dưới chẳng nghe trên, vì:
… mỗi tỉnh là một tiểu quốc…
Và:
Vì mất kỉ luật cho nên thanh niên mới trốn nghĩa vụ quân sự… Tinh thần vô kỉ luật đó, không biết một phần có phải do chính sách giáo dục trẻ em không… trẻ em càng được thể làm biếng, sức học rất kém, mà tính ngỗ nghịch (bóp vú cô giáo như trên đã nói) thì quá sức tưởng tượng. Một cán bộ già ở Bắc vô nhận rằng trẻ em trong này ngoan ngoãn, lễ phép. Nhưng tôi sợ rằng ít năm nữa, chúng đuổi kịp bạn chúng ở Bắc mất.
Cái thất bại thứ tư:
Sự thất bại hiển nhiên nhất của chế độ là sự suy sụp của kinh tế mà tôi đã trình bày sơ lược trên.
Từ ngày 30-4-75, do những đồng bào ở Bắc vào, chúng ta ở Nam mới lần lần biết cảnh điêu đứng của dân tình ngoài đó sau hai chục năm sống dưới chế độ mới. Từ trên xuống dưới ai cũng phải ăn độn có khi tới 60%-70% (tháng 8-1980, một cán bộ giáo dục ở Hà Nội vào bào tôi bây giờ họ phải ăn độn 90%, cực khổ hơn những năm 1973-1974 nhiều lắm, mà tình trạng đó còn kéo dài lâu. Thân phận không bằng con heo ở trong Nam); có hồi gạo quí tới nỗi người ta cất vào trong những cái thố, cái liễn, trân trọng như nhân sâm, chỉ khi nào đau ốm mới lấy ra một nhúm để nấu cháo; ngày tết mà có đủ gạo nấu cơm cúng ông bà là mừng lắm; khi nào được ăn một bữa cơm không độn với nước mắm thôi thì coi như được dự một bữa tiệc. Nước mắm rất hiếm, có người ở Nghệ An hay Hà Tĩnh mấy năm không có nước mắm ăn, gặp người trong Nam ra đem theo nước mắm, xin một vài muỗng rồi nuốt ực ngay hết, không đợi đem về nhà. Bát ăn mỗi người mỗi năm chỉ được một cái, hễ vỡ thì phải ăn bằng sọ dừa. Vài mỗi năm chỉ được phát một hai thước đủ để vá áo (ở miền Nam năm 1980, có nơi mội người chỉ được 6 tấc). Nhiều người vào Sài Gòn thăm bà con, khi ra vơ vét đủ thứ, từ cây đinh, khúc dây chì, lon sữa bò, ve chai…đem ra, vì ở ngoài đó thường cần dùng tới mà không kiếm đâu ra. Họ cho miền Nam này là thiên đường.
Nhưng một người Ba Lan ở trong Uỷ ban kiểm soát quốc tế năm 1975 bào chỉ trong 5 năm miền Nam sẽ “đuổi kịp miền Bắc”, nghĩa là nghèo như miền Bắc. Lời đó đúng, rất sáng suốt. Nếu không nhờ mấy trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gởi tiền, thuốc men, thực phẩm, quần áo… về gíup bà con ở đây thì chúng ta ngày nay cũng điêu đứng như anh em miền Bắc rồi.
Dân miền Nam từ xưa chưa bao giờ biết đói, phải ăn độn thì năm 1979 thì đã phải ăn độn 70-80%, có những gia đình phải ăn bữa cơm bữa cháo, có cô giáo và học sinh đói quá, tới lớp té xỉu.
Nhà nào cũng bán đồ cũ đi để ăn; nhiều giáo viên nhà đã trống rỗng, không còn bàn ghế nữa, ăn ngủ trên sàn. Ai cũng chỉ lo sao có cái gì nuốt cho đầy bao tử, chứ không dám nghĩ tới miếng ngon. Tết Canh Thân vừa rồi, ở Long Xuyên, nhà một giáo viên hồi hưu, trên bàn thờ ông bà chỉ bày một đĩa có mấy chiếc bánh phồng và bánh gai, không có một đòn bánh tét, một quả dưa hấu.
Chắc chắn ông thể ngờ rằng, cho đến bây giờ, năm 2007, dân chúng nước Việt Nam vẫn sống trong cảnh đói nghèo và “Việt Nam đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo mà hằng năm vẫn còn hàng trăm nghìn đồng bào chỉ được ăn cơm khi ngày lễ, ngày tết, khi bị ốm” như lời một ông Bộ trưởng bộ Nông nghiệp đã tuyên bố.
Khổ nhất là bọn đi kinh tế mới, thất bại, tiêu tan hết vốn liếng, về Sài Gòn, sống cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin, moi các đống rác hôi thối, lượm một miếng giấy vụn, một túi ni lông, một miếng sắt rỉ, một quai dép mủ… để bán cho ‘ve chai’. Trông thấy đống túi ni lông được rửa qua loa trong nước dơ rồi phơi ở lề đường để bán cho tiểu thương đựng hàng, tôi ghê tởm quá.
Ở Bắc tình hình hiện nay điêu đứng hơn những năm kháng Mĩ. Nghe nói ngoài đó đã xuất hiện câu ca dao:
Anh Đồng, anh Duẩn, anh Chinh,
Ba anh có biết dân tình hay không?
Rao muống nửa bó một đồng
Con ăn bố nhịn, đau lòng thằng dân.
Ở Nam có nơi hai tháng nhân viên chưa được lãnh lương, chắc nhiều gia đình không đủ tiền mua rau muống cho con nữa. Một bạn tôi đã phải ăn nước mắm kho khô.
Không có tiền mua rau thì làm gì có tiền mua thịt. Muốn lâu lâu có thịt thì phải nuôi heo, gà, cho nên nhiều cơ quan ngay khi mới thành lập đã nghĩ ngay đến việc hùn tiền (hay lấy trong quĩ?) mua heo con, phân công nhau nuôi tại khu ở tập thể, như vậy đến lễ, tết mới có thịt liên hoan. Người ta thèm thịt quá, cho nên liên hoan lu bù, bất kì một dịp gì cũng liên hoan được… mỗi năm liên hoan cả chục lần là ít… Và khi ngồi vào bàn tiệc thì chẳng ai mời ai, đợi ai, mạnh ai nấy gắp, ăn thật mau (tới nỗi có người bảo cứ nuốt trước rồi sẽ nhai sau!), tệ gấp 10 thói ăn uống ở đình làng mà Ngô tất Tố đã mạt sát trong cuốn Việc làng.
Nghèo thì sinh ra ở bẩn. Ngay trong khu tập thể một trường đại học Hà Nội, phòng một giáo sư ở Pháp về cũng dơ dáy, từ sàn gạch đến tường đều đầy vết bẩn… Dù muốn sống sạch cũng không thể được... Nếu tình trạng không thay đổi thì chỉ mươi năm nữa, toàn dân sẽ quen đi, không thấy gì là bẩn nữa. Hiện nay ở trong Nam đã nhiều nhà để bụi đóng đầy bàn ghế - mà trước kia họ sống rất sạch - mạng nhện giăng đầy trần, còn dân thị xã thì đã quen với cảnh bốn năm người cùi nằm trên đường đưa tới chợ, lăn ở giữa chợ để xin ăn.
Câu “nghèo cho sạch, rách cho thơm” của ông cha, chúng ta không giữ được vì chúng ta nghèo tới mức không thể ở sạch được.
Xã hội sa đoạ
Ông bất mãn với cái xã hội Việt Nam sau năm 1975:
Điều đáng ngại nhất là sa đoạ về tinh thần, tới mất nhân phẩm.
Tham nhũng lúc đó đã là một “quốc nạn”:
Ở tỉnh nào cũng có một số cán bộ tham nhũng, cấu kết với nhau thành một tổ chức ăn đút ăn lót một cách trắng trợn, không cần phải lén lút. Có giá biểu đàng hoàng…
Nếu một cán bộ nào bị dân tố cáo nhiều quá thì người ta cũng điều tra, đưa cán bộ đó tới một cơ quan khác (có khi còn dễ kiếm ăn hơn cơ quan cũ), đem người khác (cũng tham nhũng nữa) lại thay. Ít tháng sau dân chúng nguôi ngoai rồi, người ta lại đưa kẻ có tội về chỗ cũ. Người ta bên vực nhau (cũng là đảng viên cả mà) vì ăn chịu với nhau rồi. Dân thấy vậy, chán, không phí sức tố cáo nữa. Có người còn bảo: “Chống chúng làm gì? Nên khuyến khích chúng sa đoạ thêm chứ để chúng mau sụp đổ…”
Lớn ăn cắp lớn, nhỏ ăn cắp nhỏ. Ăn cắp nhỏ thì chỉ bị đuổi chớ không bị tội, vì “họ nghèo nên phải ăn cắp”, mà nhốt khám họ thì chỉ tốn gạo nuôi… Ăn cắp lớn, không thể ỉm được thì phải điều tra, bắt giam ít lâu, rồi nhân một lễ lớn nào đó, ân xá; không xin ân xá cho họ được thì đồng đảng tổ chức cho vượt ngục rồi cùng với gia đình vượt biên yên ổn.
Và vô số những tệ nạn khác:
Nạn “phe phẩy” (buôn lậu, làm chợ đen) còn bành trướng hơn nữa… Người ta nói đã có những vụ buôn lậu thuốc phiện; nếu cò thì cũng nhỏ thôi, kém xa thời Mĩ, Thiệu. Nhưng đồ lậu như vải, thuốc thơm, thuốc tây… thì khoảng một năm nay lan tràn thị trường…
Có đồ lậu thì luôn luôn có đồ giả… nhiều nhất là dược phẩm Tây phương, vì thứ này vừa hiếm vừa đắt… Chỉ khổ dân quê…
Nạn cờ bạc không công khai như trước, nhưng nạn “xổ số đuôi” thì công khai rồi…
Nạn cho vay nặng lãi cũng kinh khủng… Bạn hàng ở chợ không chơi hụi tháng như xưa nữa, mà chơi hụi tuần, hụi ngày!
Nạn đĩ điếm đã hết đâu. Ngay cuối năm 1975, một cán bộ cách mạng đã bảo các bạn kháng chiến ở bưng về mắc bệnh hoa liễu hết rồi; một số cán bộ rất nghiêm trang đạo mạo – có kẻ ngoài 70 tuổi - từ Hà Nội vào, năn nỉ các bạn trong Nam chỉ chỗ cho họ hưởng thú mê li một lần cho biết mùi… Họ rất thích sách khiêu dâm…
Và đây là câu kết luận của ông về cái xã hội cộng sản Việt Nam lúc đó, tuy ngắn gọn nhưng chất chứa thật nhiều nỗi chán ngán; theo tôi, nó cũng là câu kết luận chí lí cho toàn cả “Chương XXXI - Kết quả sau 5 năm” này:
Tóm lại bao nhiêu cái xấu xa thời trước vẫn còn đủ mà có phần còn tởm hơn nữa.
Câu này, cho đến nay, đem ra thẩm định cho cái xã hội Việt Nam hiện tại thì vẫn còn đúng.
Con người mất nhân phẩm
Trong một xã hội như vậy, con người dễ mất hết nhân phẩm, hoá ra đê tiện, tham lam, bất lương, nói láo, không còn tình người gì cả.
Năm 1975 đa số các cán bộ, công nhân viên ở Bắc vào thăm gia đình, họ hàng ở trong Nam, còn giữ chút thể diện “cách mạng”, bà con trong này tặng họ gì thì họ nhận, chứ không đòi; về sau họ không giữ kẽ nữa, tặng họ một thì họ xin hai, không tặng họ cũng đòi, khiến một ông bạn tôi bực mình, nhất định đóng cửa không tiếp một người bà con, bạn bè nào ở Bắc vào nữa…
Đa số cán bộ ở Nam đã tư bản hoá rồi, một xã hội chủ nghĩa xã hội mà như vậy thì chủ nghĩa đó chỉ còn cái tên thôi.
Ông quả thật là tiên tri. Cái xã hội chủ nghĩa xã hội của Việt Nam bây giờ chỉ còn là cái tên mà thôi (nói đúng ra là chỉ là một cái bình phong cho chế độ độc tài), và các cán bộ đó đã bị tư bản hoá thành các đại gia, lãnh chúa hết rồi - nhà cao cửa rộng, tiền bạc ê hề,chuyển tiền ra nước ngoài, gửi con ra ngoại quốc “du học”... Mà hình như bây giờ người ta còn bàn tán là đảng cộng sản Việt Nam đang muốn rục rịch đổi tên nữa - chỉ là khoác một cái áo mới trên một con người còm cõi.
Vài trường hợp nhơ nhớp xẩy ra trong ngành viết văn của ông:
Một nhà văn đất Bắc làm cho một tờ báo nọ nhờ một nhà văn trong Nam viết bài, hứa sẽ trả bao nhiêu đó. Viết rồi, đưa họ, họ đăng, nhưng kí tên của họ rồi đưa cho nhà văn trong Nam nửa số tiền nhuận bút thôi, còn họ giữ lại một nửa. Vừa ăn cắp văn, vừa ăn chặn tiền. Chưa bao giờ miền Nam có bọn cầm bút bẩn thỉu như vậy. Một bạn học giả của tôi ở Bắc khuyên tôi đừng giao bản thảo của tôi cho ai hết, không tin ai được cả, họ sẽ đạo văn.
Cái mất tình người:
Sống dưới chế độ cộng sản, con người hoá ra có hai mặt như Sakharov đã nói: chỉ giữa người thân mới để lộ mặt thật, còn thì phải đeo mặt nạ; luôn luôn phải đề phòng bạn bè, láng giềng, có khi cả người trong nhà nữa. Người ta tính cứ 5 người thì có 1 người kiểm soát từng ngôn ngữ, hành vi của 4 người kia… Ở Nga thời Staline như vậy, ở Bắc những năm 1954-1960 cũng gần như vậy; ở Nam đỡ hơn vì đa số người trong này không chịu làm thứ mật thám chìm đó…
Nạn làm tiền, tống tiền lan tràn khắp các ngành, cả trong ngành cứu nhân độ thế và ngành tống táng.
Ôi chao! Ngành tống táng? Tôi không ghi ra đây một thí dụ của ông về chuyện này. Đại loại là nếu không có đủ tiền đút lót thì việc chôn cất hoặc hoả thiêu người chết sẽ không được làm một cách suôn sẻ. Trong một xã hội mà ngay người đã khuất rồi mà vẫn còn bị làm tiền thì ta không thể tưởng tượng được cái nhân tính thời đó tệ hại ra sao. Nguyên do?
Tất cả chỉ tại cái lệ chính phủ định giá, định lương rẻ quá không cho dân đủ sống, dân phải xoay xở lấy, bóc lột lẫn nhau. Cổ kim chưa một xã hội nào phi lí như vậy. Vì biết mình phi lí nên có nơi chính quyền làm ngơ cho bác sĩ làm ăn, cho phép các giáo viên nguỵ dạy thêm tại nhà.
Nói cho ngay, thời nào trong xã hội cũng có một số người lương thiện. Và ông Phạm Văn Đồng đã nhận rằng thời này hạng đó thiệt thòi nhất. Tôi được biết một hai cán bộ trung cấp liêm khiết, chịu nghèo, nuôi heo thêm, chứ không tham nhũng. Gia đình họ phải ăn rau muống; quần áo thì vá đụp; có thể nói họ nghèo như các nông dân nghèo nhất thời xưa.
Tóm lại sau 5 năm chúng ta không thấy chút tiến bộ nào cả mà chỉ thấy sự chia rẽ trong xã hội, sự tan rã trong gia đình, sự sa đoạ của con người, sự suy sụp của kinh tế.
Một chế độ mà sau hơn 60 năm cầm quyền ở miền Bắc và hơn 30 năm cầm quyền ở miền Nam, léo lái đất nước Việt Nam gần cả ba thế hệ con người mà ta vẫn thấy không khá hơn (nếu không nói là tụt hậu) thì ta phải nghĩ gì về chính sách và tập đoàn cai trị của chế độ đó?
Và theo ông, về cái tương lai của chế độ đó thì:
Ông Hồ Chí Minh có lần nói: “Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa thì phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Con người vẫn là quan trọng hơn cả. Có chế độ tốt, chính sách tốt mà không có con người tốt thì cũng hỏng hết. Ai cũng phải nhận rằng tinh thần, tư cách đại đa số cán bộ càng ngày càng sa sút, hủ hoá mà xã hội chủ nghĩa mỗi ngày một lùi xa. Ông Hồ đã thấy trước cái mòi suy vi đó khi thốt ra lời trên chăng?
Giáo dục
Đoạn đầu này, ông viết về nền giáo dục Việt Nam lúc đó như sau, không biết được rằng bây giờ học phí ở bậc tiểu học không còn miễn phí nữa, mà còn tăng lên một cách phi mã, khiến việc lo kiếm tiền cho con em đi học là cả một chật vật lớn lao đối với những bậc phụ huynh; còn bậc đại học thì hiện nay sinh viên không kham nổi học phí, đã có tình trạng “học chui”:
Chính quyền rất coi trọng giáo dục, mở rất nhiều nhà trẻ, trường học từ mẫu giáo tới đại học. Giáo dục mới đầu hoàn toàn miễn phí, do đó có vẻ rất bình đẳng. Ở đại học, sinh viên nào cũng được trợ cấp mỗi tháng 18 đồng, tuy không đủ, nhưng cũng đỡ cho cha mẹ. Dĩ nhiên phải như vậy, nếu không thì không ai cho con học đại học được. Các đồng bào thiểu số cũng được dạy dỗ như người Kinh, đó cũng là điểm đáng khen nữa.
Dưới bất cứ chế độ nào, bất cứ ở đâu, trẻ em là mầm non của dân tộc, dễ uốn nắn. Vì thế, bài học đầu tiên ở dưới chế độ cộng sản Việt Nam là:
Trẻ em được cưng nhất, được coi là cháu Bác Hồ… Và người ta dạy (các em) phải ghi ơn Bác Hồ trước hết… Và cô chỉ hình Bác Hồ cho chúng coi. Chúng tiu nghỉu, chẳng hiểu gì cả. Bác Hồ là ai? Chúng đã gặp lần nào đâu? Có bồng bế chúng lần nào đâu? Có mua kẹo bánh cho chúng đâu? Cha mẹ các em đó nghe con kể vậy, bất bình, có người không cho con tới lớp nữa. Họ không hiểu đường lối cách mạng, lạc hậu quá.
Chương trình học:
Học mẫu giáo một hai năm, sáu tuổi lên cấp I, năm năm sau lên lớp 6, cấp II, khỏi thi. Lên lớp 10, cấp III thì phải thi.
Phương thức dạy học:
… sách giáo khoa mà sai – và vẫn thường sai - chẳng hạn bảo Sài Gòn nằm trên bờ sông Cửu Long thì tất cả các giáo viên cũng phải dạy sai như vậy, không được phép sửa; rồi báo cáo lên ti, ti lên bộ. Chỉ có bộ mới có quyền sửa sai, và phải hai ba năm sau, in sách mới, người ta mới sửa. Tôi thấy kì cục quá, không tin nổi, năm sau hỏi một giáo sư đại học Hà Nội, ông xác nhận là đúng: cái gì Bộ Giáo dục in thì phải coi là pháp điển, phải tuân theo triệt để.
Do đó, “thành quả” của nền giáo dục trong chế độ cộng sản nói chung, và ở Việt Nam nói riêng:
Tôi hiểu chính sách của người ta rồi: luyện tinh thần kỉ luật, làm tiêu ma óc phán đoán, ý chí cá nhân; và tôi không trách một đứa cháu tôi ở Hà Nội, một cán bộ cao cấp, vào hạng trí thức, năm nay trên 60 tuổi, có tú tài Pháp hồi thế chiến thứ nhì mà không có một chút tinh thần phê phán nào hết, trên nói sao thì tin vậy, đúng như người Pháp nói; có thể “avaler touts sorts de couleuvres”.
Chính sách giáo điều nói trên bây giờ vẫn y hệt như vậy, con người trong một xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đào tạo để nghe theo lời đảng dạy một cách máy móc, thiếu hẳn tư duy.
Đặc biệt ở miền Nam Việt Nam:
Muốn vô đại học thì sức học không quan trọng bằng lí lịch… Ra trường chắc chắn được bổ dụng… Thủ trưởng bắt làm gì cũng phải làm: cán sự điện tử mà làm lao công, dược sĩ mà giữ kho… Vì tất cả những lẽ trên, ở Nam thanh niên chán học, số học sinh lớp 12 kém xa năm 1974…
Một thí dụ về những học viên trong “chương trình giáo dục tiền tiến” này:
Một điểm tấn bộ là chính quyền mở nhiều lớp bổ túc văn hoá cho công nhân viên, cán bộ… Có đủ các cấp I, II, III. Vài cán bộ y sĩ, dược sĩ bốn năm chục tuổi, thời kháng chiến không được học, nay học bổ túc từ lớp tư, lớp năm… Học xong mỗi khoá phải thi. Nhưng thi rất dễ. Nghe nói có thầy đọc câu trả lời cho thí sinh chép, vì bắt những cán bộ mấy chục tuổi đảng thi lại hoài thì cũng kì, mà lại bị cấp trên trách là không biết dạy. Tiện hơn hết là cho đậu bừa đi. Ai cũng biết đó chỉ là hình thức. Có dược sĩ trình độ mới tới lớp tư, học rút trong hai năm hết lớp 10, như vậy đủ rồi. Một nhân viên công an cấp cho tôi giấy phép đi đường một tháng mà đề từ 31-1 đến 31-2-1980.
Văn hoá
Có lẽ việc quan trọng cần phải làm cấp kì và kĩ lưỡng nhất sau khi cưỡng chiếm miền Nam là tận diệt, xoá tan đi một nền văn hoá mà cộng sản miền Bắc cho là nguy hiểm, phản động:
Một trong công việc đầu tiên của chính quyền là huỷ tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của Bộ Văn hoá nguỵ, kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Quí Đôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyễn Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt.
Vụ đốt sách báo miền Nam thứ nhất:
Năm 1975, Sở Thông tin Văn hoá TP Hồ Chí Minh đã bắt các nhà xuất bản hễ sách nào còn giữ trong kho thì phải nạp hai hay ba bản để kiểm duyệt… ra chỉ thị cho mỗi quận phái thanh niên đi xét sách phản động, đồi truỵ trong mỗi nhà để đem về đốt. Bọn thanh niên đó đa số không biết ngoại ngữ, sách Việt cũng ít đọc, mà bảo họ kiểm duyệt như vậy thì tất nhiên phải làm bậy. Họ vào mỗi nhà, thấy sách Pháp, Anh là lượm, bất kì loại gì; sách Việt thì cứ tiểu thuyết là thu hết, chẳng kể nội dung ra sao. Họ không thể vào hết từng nhà được, ghét nhà nào, hoặc công an chỉ nhà nào là vô nhà đó.
Vụ huỷ sách miền Nam thứ nhì:
Lần thứ nhì năm 1978 mới làm xôn xao dư luận. Cứ theo đúng chỉ thị “ba huỷ”, chỉ được giữ những sách khoa học tự nhiên, còn bao nhiêu phải huỷ hết, vì nếu không phải là loại phản động (một huỷ), thì cũng là đồi truỵ (hai huỷ), không phải phản động, đồi truỵ thì cũng là lạc hậu (ba huỷ), và mỗi nhà chỉ còn giữ được vài cuốn, nhiều lắm là vài mươi cuốn tự điển, toán, vật lí…
Và dứt điểm là:
… năm 1978, chính quyền Bắc chẳng những tán thành công việc huỷ sách đó mà còn cho là nó chưa được triệt để, ra lệnh huỷ hết các sách ở trong Nam, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kĩ thuật, các tự điển thôi; như vậy chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lí, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của ông cha mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh phụ ngâm… in ở trong Nam đều phải huỷ ráo.
Một thí dụ điển hình mà chính ông là nạn nhân:
Một độc giả lập một danh sách các tác phẩm của tôi mà ông ta có trong nhà, đem lại Sở Thông tin hỏi thứ nào được phép giữ lại, nhân viên thông tin chẳng cần ngó tên sách, khoát tay bảo: Huỷ hết, huỷ hết.
Có lẽ mục đích của cuộc phá huỷ văn hoá miền Nam là tận diệt cho sạch tàn dư Mĩ nguỵ và để cho văn hoá miền Nam được “tiến” lên ngang hàng với văn hoá miền Bắc. Mà cái văn hoá đó thì ông đã đánh giá nó như sau:
Sau ngày 30-4-75, tôi muốn tìm hiểu cách mạng Nga từ 1917 đến 1945, nhờ mấy bạn cách mạng tìm sách cho, họ bảo chính họ cũng không được đọc vì không thấy một cuốn nào cả. Sau tôi mới biết rằng loại đó ngay ở Nga cũng không ai được phép viết. Như vậy kiến thức hạng trí thức ngoài đó ra sao, ta có thể đoán được…
Một cán bộ khác cho tôi hay ở Hà Nội người nào có được 50 cuốn sách là nhiều rồi. Anh ta mới thấy ba trong số 9 tủ sách của tôi đã bảo nhà tôi nhiều sách như một thư viện. Nhà bác học Sakharov trong một bài báo tôi đã dẫn, bảo ở Nga không có đời sống tinh thần (vie intellectuelle). Chúng ta có thể tin lời đó được.
Và đây là trí thức của tầng lớp cán bộ văn hoá chỉ huy:
Một nhà văn hợp tác với Viện Khoa học Xã hội lại nhờ tôi giới thiệu cho mươi nhà văn, học giả giỏi tiếng Anh và tiếng Việt để dịch cho viện bộ Bách khoa tự điển Anh gồm 25 cuốn, mà phải dịch gấp vì đó là chỉ thị của một ông “bự”. Tôi bảo có 50 nhà dịch cũng không làm nổi vì phải tạo hằng ức danh từ mới (riêng ngành Informatique trong 30 năm nay đã có một vạn thuật ngữ rồi); mà ví dụ có dịch nổi thì cũng phải mất ít nhất mười năm mới xong; xong rồi lại phải dịch lại hoặc bổ túc rất nhiều vì lỗi thời mất rồi: ở Anh, mỗi năm người ta sửa chữa, bổ túc, in lại một lần; rồi lại phải bỏ cả chục năm nữa, không biết có in xong được không. Xong rồi, bán cho ai, ai đủ tiền mua? Cán bộ văn hoá vào hàng chỉ huy mà dốt tới mức đó!
Trị dân mà không biết một chút gì về tình cảnh của dân cả. Họ có vận dụng trí óc của họ không?
Kẻ cai trị mà như vậy thì người bị trị như thế nào?
Còn hạng nông dân ngoài Bắc thì khờ khạo, ngớ ngẩn so với nông dân trong này không khác gì một người ở rừng núi với một người ở tỉnh. Mấy anh bộ đội bị nhồi sọ, trước 1975 cứ tin rằng miền Nam này nghèo đói không có bát ăn, sau 30-4-75, vô Sài Gòn, loá mắt lên, mới thấy thượng cấp các anh nói láo hết hoặc cũng chẳng biết gì hơn các anh.
Hậu quả của chính sách văn hoá ngu dân, nhồi sọ:
Tóm lại, chính sách là chỉ cho dân được nói theo một chiều, trông thấy một hướng; nên chỉ một số rất ít giữ được tinh thần phê phán, nhưng chẳng thi thố được gì, sống nghèo khổ, bất mãn.
Y tế
Dân trong ấp, xã bị bệnh thì lại họ (nhân viên y tế nông thôn) trước, họ không trị được thì đưa ngay lên quận; quận có bác sĩ đa khoa, trị không được thì đưa ra tỉnh; tỉnh có bác sĩ chuyên khoa, đủ dụng cụ, đủ thuốc… Lần lần nhân viên y tế nông thôn vừa làm việc vừa học thêm, có thể lãnh trách nhiệm quan trọng hơn, đưa lên giúp việc ở quận. Chính sách đó rất họp lí và chính quyền mình cũng đã áp dụng nó. Đó là một điểm tấn bộ.
Trình độ nhân viên y tế:
Nhưng vì chiến tranh, nhân viên y tế các cấp của mình da số ít được học, nên chúng ta thấy những y sĩ (y sĩ Bắc có quyền ra toa, nhưng kém bác sĩ một bực), học chỉ tới lớp năm (hết cấp I), chỉ biết dăm chục tên thuốc, không biết đo huyết áp, không biết thế nào là đau mắt hột… chỉ đáng làm một nhân viên y tế nông thôn thôi. Còn bác sĩ được đào tạo ở Bắc thì xét chung, sự hiểu biết cũng kém xa bác sĩ đào tạo ở Nam… Nhân viên y tế nông thôn cũng thiếu, tinh thần trách nhiệm rất thấp: một huyện nọ người ta tiêm thuốc ngừa dịch tả cho ba người lớn và chín trẻ em thì tám trẻ chết.
Tình trạng của nền y tế lúc đó:
Tệ nhất là nạn thiếu thuốc, thiếu cả thuốc đỏ, thuốc tím, do đó sinh ra nạn ăn cắp thuốc, ra toa cho người không có bệnh để họ bán thuốc chợ đen.
Nhưng:
Cũng may mà có hằng trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gửi thuốc về giúp thân nhân, nếu không sức khoẻ của dân sa sút không biết tới đâu.
Vậy mà những kiều bào đó, lúc đó và ngay cả gần sau này, đều bị chửi là trốn nước cầu vinh, từ bỏ quê hương, không chịu ở lại cùng khổ với nhân dân để kiến thiết đất nước!
Tệ nhất là nạn thiếu vệ sinh… từ cơ quan tới đường sá, tư gia, đâu đâu cũng dơ dáy… Nhiều cơ quan nuôi gà, heo ngay trong phòng của họ, và từ trên lầu thượng họ trút nươc dơ xuống đường. Phòng bệnh nhân trong các bệnh viện hôi hám không chịu nổi; phải bịt mũi khi đi tới gần cầu tiêu… người ta phóng uế đầy đường.
Một hí kịch của nhà nước:
Gần cuối kế hoạch năm năm đầu tiên (1976-1980), người ta làm một “chiến dịch” vệ sinh để “dứt điểm” và người ta lựa ngay khu sạch sẽ nhất trong thị xã làm “thí điểm”, phái một nhóm người đi xịt thuốc DDT cho từng nhà; thuốc đã pha loãng nhiều rồi mà lại chỉ xịt vài phòng tối, vài bụi cây thôi. Không cần xem xét chỗ chứa rác, cầu tiêu. Thế là xong chiến dịch, có thể báo cáo lên trung ương là đã dứt điểm.
Xem xong thì ông phải lên tiếng than:
Chính sách, đường lối tuy đúng mà thiếu người, thiếu phương tiện, thiếu tinh thần thì cũng hoá dở.
Chính sách, đường lối lúc ấy không biết có đúng hay không, nhưng chính sách, đường lối y tế bây giờ là lập lòe đánh lận con đen, dịch tả đang lan tràn thì nói trại đi là dịch “tiêu chảy cấp”.
Tư pháp
Tình trạng sinh viên miền Nam sau 1975:
Từ năm 1975, trường luật bị bãi bỏ. Sinh viên luật có thể xin chuyển qua ngành kinh tế, ra làm các ngân hàng. Nhưng đa số bỏ học, làm phu khuân vác, đạp xích lô… Đó là chuyện 1975. Nay thì thanh niên trí thức làm đủ các việc lao động rồi, bổ củi mướn, chở cát, vác gạo…, không ai ngạc nhiên, mà cũng không ai thương hại cho họ nữa, họ dễ dàng kiếm được vài ba chục đồng một ngày mà lại tự do, chứ không làm thư kí ngân hàng 40 đồng một tháng thì sống sao nổi. Vả lại lao động là vinh quang mà. Nữ sinh viên thì bán thuốc lá rời hoặc quần áo cũ ở lề đường.
Tình hình ngành tư pháp sau năm 1975:
Trong Nam trước năm 1975 chưa có bộ luật mới, tạm dùng bộ luật cũ. Còn ở Bắc bỏ luật cũ mà không có luật mới (nghe nói năm 1981 người ta mới tính thảo bộ luật mới), không có trường luật thì tôi không hiểu người ta dạy xử án ra sao.
Ông kể một vài thí dụ về những vụ xử sau năm 1975:
Năm 1975 có lần tổ chúng tôi họp để xử một người trong tổ mắc một tội nào đó tôi không nhớ. Ông tổ trưởng đề nghị hai cách trừng trị… Cách nào được nhiều người đồng ý thì theo cách đó… Khi phường có toà án nhân dân rồi (năm 1978?) thì để toà xử. Một “ông toà” là học trò cũ của một bạn tôi. Tôi hỏi cậu ta: “Cháu xử theo luật nào?” Cậu ta cười, đáp: Cháu đặt ra luật để xử - Thực vậy sao? - Dạ, bây giờ ai đặt luật cũng được. Vì có bộ luật nào đâu?
Tuy nhiên:
Cũng có luật sư do chính quyền chỉ định để bênh vực cho bị cáo… Chính phủ bênh vực giai cấp vô sản; hạng bần dân dù bị tội nặng cũng xử nhẹ - trừ tội phản động dĩ nhiên.
Và:
Hiến pháp vẫn trọng quyền tư hữu nhỏ, nhưng đảng còn trọng lập trường giai cấp hơn. Giai cấp được trọng nhất là giai cấp đảng viên, như giai cấp quí tộc đời Chu ba ngàn năm trước… Giai cấp yên thân nhất là giai cấp vô gia cư, vô nghề nghiệp.
Không khác gì chế độ phong kiến hồi xưa! Câu cuối của ông khiến cho ta phải ngừng đọc mà suy nghĩ, nghiền ngẫm thêm một tí…
Ngoại giao
Về ngoại giao nước mình đã đứng hẳn về phe cộng sản. Như vậy các nước tư bản ngại không muốn đầu tư vào Việt Nam mà sự phát triển kinh tế sẽ chậm.
Đó là nguyên nhân khởi thuỷ của màn suy sụp kinh tế trong những năm 1975-1985. Tình hình ngoại giao với mấy nước anh em sát biên giới cũng không khá hơn:
Có người lại bảo tại mình mới thắng được Mĩ, mình đã muốn làm chủ cả bán đảo Đông Dương… Khi Miên, Việt hục hặc với nhau ở biên giới (nghe nói từ đầu năm 1976?) thì tôi đã ngạc nhiên; rồi đầu năm 1979, Trung Hoa đem quân tàn phá mấy tỉnh cực bắc của mình thì ai cũng chán nản, kể cả một số bạn của tôi ở Bắc. Thế này thì tình anh em trong thế giới cộng sản cũng chẳng đẹp gì hơn tình giữa các nước tư bản với nhau ư?...
Vậy là chiến tranh thứ nhì của dân tộc mình mới chấm dứt được vài năm thì chiến tranh thứ ba đã bắt đầu. Từ cách mạng tháng 8 năm 1954 đến nay đã trên 35 năm rồi, gần như chiến tranh liên miên, bây giờ phải chịu hoạ binh đao mấy chục năm nữa? Khắp thế giới không có dân tộc nào khổ như mình. Công việc kiến thiết quốc gia đành chậm lại nữa, kinh tế sẽ xuống dốc nữa.
Cũng may Đảng ta đã “sáng suốt” dâng đất, nhường biển cho Trung Hoa nên sau đó chúng mới để đảng ta yên mà thực hiện chính sách “đổi mới” hầu củng cố địa vị độc tôn, nắm đầu thắt cổ nhân dân cho tới bây giờ. Nhưng sau đó thì hậu quả lại khôn lường, lúc biết ra thì lòng dân sôi sục, thanh niên sinh viên học sinh tự phát biểu tình đòi chủ quyền tại Hoàng Sa - Trường Sa thì bị ngăn cấm, bắt bớ, đàn áp. Đảng chỉ sợ đàn anh phật lòng mà không coi trọng đến tình cảnh nhân dân uất ức trước nỗi nhục mất đất, trước nỗi đau bị cướp đi tài sản thiêng liêng của tổ tiên để lại.
Tôn giáo
Ông viết rất ít về phần này. Tôi xin ghi hết cả ra đây:
Về tôn giáo, chính sách của chính phủ là tôn trọng tự do tín ngưỡng, miễn là các giáo phái yên ổn tụng niệm.
Mấy năm đầu có vài sự bất hoà, xung đột nhỏ, dẹp được ngay (bắt một số tu sĩ Công giáo và Phật giáo), và hai ba năm nay chính quyền trả lại chùa chiền cho giáo hội, không dùng làm nơi hội họp nữa; ở vài nơi tín đồ tới chùa khá đông, rất ít đàn ông. Nhiều nhà tu hành hoàn tục để mưu sinh. Cũng có một số vượt biên. Không còn hạng khất sĩ nữa, họ tự giải tán, mỗi người đi mỗi nơi để kiếm ăn.
Có thể nói chính sách của mình cởi mở hơn Trung Hoa.
Đảng viên không được theo tôn giáo, cũng không được cúng tổ tiên, nhưng được phép “tưởng niệm” (sic) mà không đốt nhang, không vái, ai muốn làm giỗ ông bà thì phải đóng cửa làm lén.
Bây giờ thì ta đã biết rồi: linh mục thì bị bỏ tù, hoà thượng thì bị theo dõi. Phật giáo thì bị chia làm hai, phe không nghe lời của đảng thì bị cấm hoạt động. Công giáo thì bị đặt điều bởi chủ tịch nhà nước qua báo chí của đảng, bằng cách đút vào miệng chủ tịch nhà nước những câu tuyên bố láo khoét.
Chương XXXIII - Kết quả sau 5 năm
Thất bại trong hoà bình
Đây là chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam áp dụng với dân chúng miền Nam sau năm 1975:
Muốn kiến thiết thì trước hết phải san phẳng chế độ cũ cái đã, không để lại một dấu vết nào cả. Phải đuổi hết các nhân viên cũ, để anh em cách mạng chia nhau tất cả các chức vụ lớn nhỏ. Phải diệt bọn tư bản, chiếm nhà cửa, tài sản như núi của họ, chia nhau mỗi người một chút. “Đó là quyền của mình mà!”
Bây giờ 5 năm sau ngày 30-4-75, hết kế hoạch ngũ niên đầu tiên rồi, chúng ta mới thấy cơ hồ chẳng tiến bộ về một phương diện nào hết mà còn thụt lùi nữa, và ai lạc quan tới mấy cũng phải nhận chúng ta đã bỏ phí 5 năm, và không biết phải mấy năm nữa mới bắt lại được thời gian đã mất đó. Trong khi ấy thì thế giới cứ vùn vụt tiến tới.
Ông đưa ra bốn cái thất bại của nhà nước đương thời cùng những lí do của nó. Cái thất bại thứ nhất:
Thất bại lớn nhất, theo tôi là không đoàn kết được quốc dân. Tháng 5-1975, có ít nhất là 90% người miền Nam hướng về miền Bắc, mang ơn miền Bắc đã đuổi được Mĩ đi, lập lại hoà bình, và ai cũng có thiện chí tận lực làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ sáu bảy tháng sau, cuối năm 1975 đã có đa số người Nam chán chế độ ngoài Bắc, chán đồng bào Bắc…
Nguyên nhân chính theo tôi là người miền Bắc vơ đũa cả nắm, coi người Nam là “nguỵ” hết, truỵ lạc, bị nhiễm độc nặng của Mĩ. Ngay hạng trí thức miền Bắc như ông Đào Duy Anh cũng có thành kiến là dân Sài Gòn hư hỏng quá rồi. Họ chỉ nhìn bề ngoài… Bọn thanh niên hư hỏng ở Sài Gòn mới có nhiều, mà tỉ số không cao so với những thanh niên đứng đắn.
Sự khinh rẻ giữa Bắc - Nam:
Người Bắc coi người Nam là nguỵ, đối xử người Nam như những thực dân da trắng đối với dân “bản xứ”, tự cao tự đại, tự cho rằng về điểm nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được Mĩ thì cái gì cũng làm được. Chỉ cho họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt miệng người ta bằng câu: “Tôi là kháng chiến, anh là nguỵ thì tôi mới có lí, anh đừng nói nữa”. Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng chiến, cách mạng đó, được Hồ Chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng những dốt về văn hoá, kĩ thuật - điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh, họ không được học – thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài bẩy nhau… Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là nguỵ nữa, vì nguỵ có tư cách hơn kháng chiến. Và người ta đâm ra thất vọng khi thấy chân diện mục của một số anh em cách mạng đó, thấy vài nét của xã hội miền Bắc: bạn bè hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái không dám nhận cha mẹ, học trò cấp II đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú… Thì ra: “Nhìn xa ngỡ tượng tô vàng…”
Và trong chăn mới biết có rận:
Ngay giữa các đồng chí cũng không có tinh thần đoàn kết…Chính vì thiếu đoàn kết nên trong cuộc hội họp nào người ta cũng hô hào “Đoàn kết, đại đoàn kết”. Còn ở trong phòng họp thì ai cũng hoan hô tinh thần đoàn kết, ra khỏi phòng rồi thì hết đoàn kết. Người ta chỉ đoàn kết với nhau vì quyền lợi thôi; do đó mà có tinh thần bè phái, gia đình trị, và miền Bắc có câu này: nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế.
Cái thất bại thứ nhì:
Điểm thứ nhì làm cho chúng ta thất vọng là xã hội còn bất công hơn hồi trước nhiều.
Sự bất công (cũng như tham nhũng) xẩy ra đầy rẫy trong xã hội, suốt cả chiều ngang lẫn chiều dọc, điển hình là:
Có người nói một số “ông lớn” đi đâu cũng có người hầu xách bình nước sâm Cao Li để ông lớn uống thay trà; một ông nọ luôn luôn có một bác sĩ ở bên và một thiếu nữ quạt hầu vì ông không chịu được quạt máy. Tôi không biết những tin đó đúng hay không, chỉ biết những tin đó do “anh em cách mạng” đưa ra cả...
Sài Gòn đưọc giải phóng vài năm thì ta thấy xuất hiện ngay một hạng giàu sang mới nổi, thay thế bọn giàu sang thời Thiệu,, và cũng thích những xa xí phẩm (áo hàng thêu, hột xoàn, máy điều hoà không khí v.v…) của thời Thiệu. Tiền đâu mà họ mua những thứ đó nhỉ?
Sự bất công chướng nhất, tàn nhẫn nhất là lương công nhân viên từ năm 1975 cứ đứng yên trong khi sự phân phối nhu yếu phẩm giảm đi gần hết, chỉ còn gạo, bo bo là tạm đủ, nhất là trong khi mãi lực của đồng bạc năm 1980 chỉ còn 1/10 năm 1975; thành thử lương một công nhân viên chỉ đủ để mua củi chụm, lương một bác sĩ mới ra trường chỉ đủ để mua rau muống ăn. Khắp thế giới không đâu có chế độ lương bổng như vậy. Người nào cũng phải bán đồ đi mà xài, nhờ cha mẹ giúp đỡ, nếu không thì phảo xoay xở mọi cách, làm sao sống được thì làm, chính phủ không biết tới. Một cán bộ ở Hà Nội đã phàn nàn: “Người ta có rất nhiều quyền hành mà không có một chút tinh thần trách nhiệm nào cả. Thật lạ lùng!”
Cái thất bại thứ ba:
Không ai có trách nhiệm mà tinh thần bè phái quá nặng nên không có kỉ luật, dưới không tuân trên, loạn.
Nguyên nhân là cán nặng hơn gáo, dưới chẳng nghe trên, vì:
… mỗi tỉnh là một tiểu quốc…
Và:
Vì mất kỉ luật cho nên thanh niên mới trốn nghĩa vụ quân sự… Tinh thần vô kỉ luật đó, không biết một phần có phải do chính sách giáo dục trẻ em không… trẻ em càng được thể làm biếng, sức học rất kém, mà tính ngỗ nghịch (bóp vú cô giáo như trên đã nói) thì quá sức tưởng tượng. Một cán bộ già ở Bắc vô nhận rằng trẻ em trong này ngoan ngoãn, lễ phép. Nhưng tôi sợ rằng ít năm nữa, chúng đuổi kịp bạn chúng ở Bắc mất.
Cái thất bại thứ tư:
Sự thất bại hiển nhiên nhất của chế độ là sự suy sụp của kinh tế mà tôi đã trình bày sơ lược trên.
Từ ngày 30-4-75, do những đồng bào ở Bắc vào, chúng ta ở Nam mới lần lần biết cảnh điêu đứng của dân tình ngoài đó sau hai chục năm sống dưới chế độ mới. Từ trên xuống dưới ai cũng phải ăn độn có khi tới 60%-70% (tháng 8-1980, một cán bộ giáo dục ở Hà Nội vào bào tôi bây giờ họ phải ăn độn 90%, cực khổ hơn những năm 1973-1974 nhiều lắm, mà tình trạng đó còn kéo dài lâu. Thân phận không bằng con heo ở trong Nam); có hồi gạo quí tới nỗi người ta cất vào trong những cái thố, cái liễn, trân trọng như nhân sâm, chỉ khi nào đau ốm mới lấy ra một nhúm để nấu cháo; ngày tết mà có đủ gạo nấu cơm cúng ông bà là mừng lắm; khi nào được ăn một bữa cơm không độn với nước mắm thôi thì coi như được dự một bữa tiệc. Nước mắm rất hiếm, có người ở Nghệ An hay Hà Tĩnh mấy năm không có nước mắm ăn, gặp người trong Nam ra đem theo nước mắm, xin một vài muỗng rồi nuốt ực ngay hết, không đợi đem về nhà. Bát ăn mỗi người mỗi năm chỉ được một cái, hễ vỡ thì phải ăn bằng sọ dừa. Vài mỗi năm chỉ được phát một hai thước đủ để vá áo (ở miền Nam năm 1980, có nơi mội người chỉ được 6 tấc). Nhiều người vào Sài Gòn thăm bà con, khi ra vơ vét đủ thứ, từ cây đinh, khúc dây chì, lon sữa bò, ve chai…đem ra, vì ở ngoài đó thường cần dùng tới mà không kiếm đâu ra. Họ cho miền Nam này là thiên đường.
Nhưng một người Ba Lan ở trong Uỷ ban kiểm soát quốc tế năm 1975 bào chỉ trong 5 năm miền Nam sẽ “đuổi kịp miền Bắc”, nghĩa là nghèo như miền Bắc. Lời đó đúng, rất sáng suốt. Nếu không nhờ mấy trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gởi tiền, thuốc men, thực phẩm, quần áo… về gíup bà con ở đây thì chúng ta ngày nay cũng điêu đứng như anh em miền Bắc rồi.
Dân miền Nam từ xưa chưa bao giờ biết đói, phải ăn độn thì năm 1979 thì đã phải ăn độn 70-80%, có những gia đình phải ăn bữa cơm bữa cháo, có cô giáo và học sinh đói quá, tới lớp té xỉu.
Nhà nào cũng bán đồ cũ đi để ăn; nhiều giáo viên nhà đã trống rỗng, không còn bàn ghế nữa, ăn ngủ trên sàn. Ai cũng chỉ lo sao có cái gì nuốt cho đầy bao tử, chứ không dám nghĩ tới miếng ngon. Tết Canh Thân vừa rồi, ở Long Xuyên, nhà một giáo viên hồi hưu, trên bàn thờ ông bà chỉ bày một đĩa có mấy chiếc bánh phồng và bánh gai, không có một đòn bánh tét, một quả dưa hấu.
Chắc chắn ông thể ngờ rằng, cho đến bây giờ, năm 2007, dân chúng nước Việt Nam vẫn sống trong cảnh đói nghèo và “Việt Nam đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo mà hằng năm vẫn còn hàng trăm nghìn đồng bào chỉ được ăn cơm khi ngày lễ, ngày tết, khi bị ốm” như lời một ông Bộ trưởng bộ Nông nghiệp đã tuyên bố.
Khổ nhất là bọn đi kinh tế mới, thất bại, tiêu tan hết vốn liếng, về Sài Gòn, sống cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin, moi các đống rác hôi thối, lượm một miếng giấy vụn, một túi ni lông, một miếng sắt rỉ, một quai dép mủ… để bán cho ‘ve chai’. Trông thấy đống túi ni lông được rửa qua loa trong nước dơ rồi phơi ở lề đường để bán cho tiểu thương đựng hàng, tôi ghê tởm quá.
Ở Bắc tình hình hiện nay điêu đứng hơn những năm kháng Mĩ. Nghe nói ngoài đó đã xuất hiện câu ca dao:
Anh Đồng, anh Duẩn, anh Chinh,
Ba anh có biết dân tình hay không?
Rao muống nửa bó một đồng
Con ăn bố nhịn, đau lòng thằng dân.
Ở Nam có nơi hai tháng nhân viên chưa được lãnh lương, chắc nhiều gia đình không đủ tiền mua rau muống cho con nữa. Một bạn tôi đã phải ăn nước mắm kho khô.
Không có tiền mua rau thì làm gì có tiền mua thịt. Muốn lâu lâu có thịt thì phải nuôi heo, gà, cho nên nhiều cơ quan ngay khi mới thành lập đã nghĩ ngay đến việc hùn tiền (hay lấy trong quĩ?) mua heo con, phân công nhau nuôi tại khu ở tập thể, như vậy đến lễ, tết mới có thịt liên hoan. Người ta thèm thịt quá, cho nên liên hoan lu bù, bất kì một dịp gì cũng liên hoan được… mỗi năm liên hoan cả chục lần là ít… Và khi ngồi vào bàn tiệc thì chẳng ai mời ai, đợi ai, mạnh ai nấy gắp, ăn thật mau (tới nỗi có người bảo cứ nuốt trước rồi sẽ nhai sau!), tệ gấp 10 thói ăn uống ở đình làng mà Ngô tất Tố đã mạt sát trong cuốn Việc làng.
Nghèo thì sinh ra ở bẩn. Ngay trong khu tập thể một trường đại học Hà Nội, phòng một giáo sư ở Pháp về cũng dơ dáy, từ sàn gạch đến tường đều đầy vết bẩn… Dù muốn sống sạch cũng không thể được... Nếu tình trạng không thay đổi thì chỉ mươi năm nữa, toàn dân sẽ quen đi, không thấy gì là bẩn nữa. Hiện nay ở trong Nam đã nhiều nhà để bụi đóng đầy bàn ghế - mà trước kia họ sống rất sạch - mạng nhện giăng đầy trần, còn dân thị xã thì đã quen với cảnh bốn năm người cùi nằm trên đường đưa tới chợ, lăn ở giữa chợ để xin ăn.
Câu “nghèo cho sạch, rách cho thơm” của ông cha, chúng ta không giữ được vì chúng ta nghèo tới mức không thể ở sạch được.
Xã hội sa đoạ
Ông bất mãn với cái xã hội Việt Nam sau năm 1975:
Điều đáng ngại nhất là sa đoạ về tinh thần, tới mất nhân phẩm.
Tham nhũng lúc đó đã là một “quốc nạn”:
Ở tỉnh nào cũng có một số cán bộ tham nhũng, cấu kết với nhau thành một tổ chức ăn đút ăn lót một cách trắng trợn, không cần phải lén lút. Có giá biểu đàng hoàng…
Nếu một cán bộ nào bị dân tố cáo nhiều quá thì người ta cũng điều tra, đưa cán bộ đó tới một cơ quan khác (có khi còn dễ kiếm ăn hơn cơ quan cũ), đem người khác (cũng tham nhũng nữa) lại thay. Ít tháng sau dân chúng nguôi ngoai rồi, người ta lại đưa kẻ có tội về chỗ cũ. Người ta bên vực nhau (cũng là đảng viên cả mà) vì ăn chịu với nhau rồi. Dân thấy vậy, chán, không phí sức tố cáo nữa. Có người còn bảo: “Chống chúng làm gì? Nên khuyến khích chúng sa đoạ thêm chứ để chúng mau sụp đổ…”
Lớn ăn cắp lớn, nhỏ ăn cắp nhỏ. Ăn cắp nhỏ thì chỉ bị đuổi chớ không bị tội, vì “họ nghèo nên phải ăn cắp”, mà nhốt khám họ thì chỉ tốn gạo nuôi… Ăn cắp lớn, không thể ỉm được thì phải điều tra, bắt giam ít lâu, rồi nhân một lễ lớn nào đó, ân xá; không xin ân xá cho họ được thì đồng đảng tổ chức cho vượt ngục rồi cùng với gia đình vượt biên yên ổn.
Và vô số những tệ nạn khác:
Nạn “phe phẩy” (buôn lậu, làm chợ đen) còn bành trướng hơn nữa… Người ta nói đã có những vụ buôn lậu thuốc phiện; nếu cò thì cũng nhỏ thôi, kém xa thời Mĩ, Thiệu. Nhưng đồ lậu như vải, thuốc thơm, thuốc tây… thì khoảng một năm nay lan tràn thị trường…
Có đồ lậu thì luôn luôn có đồ giả… nhiều nhất là dược phẩm Tây phương, vì thứ này vừa hiếm vừa đắt… Chỉ khổ dân quê…
Nạn cờ bạc không công khai như trước, nhưng nạn “xổ số đuôi” thì công khai rồi…
Nạn cho vay nặng lãi cũng kinh khủng… Bạn hàng ở chợ không chơi hụi tháng như xưa nữa, mà chơi hụi tuần, hụi ngày!
Nạn đĩ điếm đã hết đâu. Ngay cuối năm 1975, một cán bộ cách mạng đã bảo các bạn kháng chiến ở bưng về mắc bệnh hoa liễu hết rồi; một số cán bộ rất nghiêm trang đạo mạo – có kẻ ngoài 70 tuổi - từ Hà Nội vào, năn nỉ các bạn trong Nam chỉ chỗ cho họ hưởng thú mê li một lần cho biết mùi… Họ rất thích sách khiêu dâm…
Và đây là câu kết luận của ông về cái xã hội cộng sản Việt Nam lúc đó, tuy ngắn gọn nhưng chất chứa thật nhiều nỗi chán ngán; theo tôi, nó cũng là câu kết luận chí lí cho toàn cả “Chương XXXI - Kết quả sau 5 năm” này:
Tóm lại bao nhiêu cái xấu xa thời trước vẫn còn đủ mà có phần còn tởm hơn nữa.
Câu này, cho đến nay, đem ra thẩm định cho cái xã hội Việt Nam hiện tại thì vẫn còn đúng.
Con người mất nhân phẩm
Trong một xã hội như vậy, con người dễ mất hết nhân phẩm, hoá ra đê tiện, tham lam, bất lương, nói láo, không còn tình người gì cả.
Năm 1975 đa số các cán bộ, công nhân viên ở Bắc vào thăm gia đình, họ hàng ở trong Nam, còn giữ chút thể diện “cách mạng”, bà con trong này tặng họ gì thì họ nhận, chứ không đòi; về sau họ không giữ kẽ nữa, tặng họ một thì họ xin hai, không tặng họ cũng đòi, khiến một ông bạn tôi bực mình, nhất định đóng cửa không tiếp một người bà con, bạn bè nào ở Bắc vào nữa…
Đa số cán bộ ở Nam đã tư bản hoá rồi, một xã hội chủ nghĩa xã hội mà như vậy thì chủ nghĩa đó chỉ còn cái tên thôi.
Ông quả thật là tiên tri. Cái xã hội chủ nghĩa xã hội của Việt Nam bây giờ chỉ còn là cái tên mà thôi (nói đúng ra là chỉ là một cái bình phong cho chế độ độc tài), và các cán bộ đó đã bị tư bản hoá thành các đại gia, lãnh chúa hết rồi - nhà cao cửa rộng, tiền bạc ê hề,chuyển tiền ra nước ngoài, gửi con ra ngoại quốc “du học”... Mà hình như bây giờ người ta còn bàn tán là đảng cộng sản Việt Nam đang muốn rục rịch đổi tên nữa - chỉ là khoác một cái áo mới trên một con người còm cõi.
Vài trường hợp nhơ nhớp xẩy ra trong ngành viết văn của ông:
Một nhà văn đất Bắc làm cho một tờ báo nọ nhờ một nhà văn trong Nam viết bài, hứa sẽ trả bao nhiêu đó. Viết rồi, đưa họ, họ đăng, nhưng kí tên của họ rồi đưa cho nhà văn trong Nam nửa số tiền nhuận bút thôi, còn họ giữ lại một nửa. Vừa ăn cắp văn, vừa ăn chặn tiền. Chưa bao giờ miền Nam có bọn cầm bút bẩn thỉu như vậy. Một bạn học giả của tôi ở Bắc khuyên tôi đừng giao bản thảo của tôi cho ai hết, không tin ai được cả, họ sẽ đạo văn.
Cái mất tình người:
Sống dưới chế độ cộng sản, con người hoá ra có hai mặt như Sakharov đã nói: chỉ giữa người thân mới để lộ mặt thật, còn thì phải đeo mặt nạ; luôn luôn phải đề phòng bạn bè, láng giềng, có khi cả người trong nhà nữa. Người ta tính cứ 5 người thì có 1 người kiểm soát từng ngôn ngữ, hành vi của 4 người kia… Ở Nga thời Staline như vậy, ở Bắc những năm 1954-1960 cũng gần như vậy; ở Nam đỡ hơn vì đa số người trong này không chịu làm thứ mật thám chìm đó…
Nạn làm tiền, tống tiền lan tràn khắp các ngành, cả trong ngành cứu nhân độ thế và ngành tống táng.
Ôi chao! Ngành tống táng? Tôi không ghi ra đây một thí dụ của ông về chuyện này. Đại loại là nếu không có đủ tiền đút lót thì việc chôn cất hoặc hoả thiêu người chết sẽ không được làm một cách suôn sẻ. Trong một xã hội mà ngay người đã khuất rồi mà vẫn còn bị làm tiền thì ta không thể tưởng tượng được cái nhân tính thời đó tệ hại ra sao. Nguyên do?
Tất cả chỉ tại cái lệ chính phủ định giá, định lương rẻ quá không cho dân đủ sống, dân phải xoay xở lấy, bóc lột lẫn nhau. Cổ kim chưa một xã hội nào phi lí như vậy. Vì biết mình phi lí nên có nơi chính quyền làm ngơ cho bác sĩ làm ăn, cho phép các giáo viên nguỵ dạy thêm tại nhà.
Nói cho ngay, thời nào trong xã hội cũng có một số người lương thiện. Và ông Phạm Văn Đồng đã nhận rằng thời này hạng đó thiệt thòi nhất. Tôi được biết một hai cán bộ trung cấp liêm khiết, chịu nghèo, nuôi heo thêm, chứ không tham nhũng. Gia đình họ phải ăn rau muống; quần áo thì vá đụp; có thể nói họ nghèo như các nông dân nghèo nhất thời xưa.
Tóm lại sau 5 năm chúng ta không thấy chút tiến bộ nào cả mà chỉ thấy sự chia rẽ trong xã hội, sự tan rã trong gia đình, sự sa đoạ của con người, sự suy sụp của kinh tế.
Một chế độ mà sau hơn 60 năm cầm quyền ở miền Bắc và hơn 30 năm cầm quyền ở miền Nam, léo lái đất nước Việt Nam gần cả ba thế hệ con người mà ta vẫn thấy không khá hơn (nếu không nói là tụt hậu) thì ta phải nghĩ gì về chính sách và tập đoàn cai trị của chế độ đó?
Và theo ông, về cái tương lai của chế độ đó thì:
Ông Hồ Chí Minh có lần nói: “Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa thì phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Con người vẫn là quan trọng hơn cả. Có chế độ tốt, chính sách tốt mà không có con người tốt thì cũng hỏng hết. Ai cũng phải nhận rằng tinh thần, tư cách đại đa số cán bộ càng ngày càng sa sút, hủ hoá mà xã hội chủ nghĩa mỗi ngày một lùi xa. Ông Hồ đã thấy trước cái mòi suy vi đó khi thốt ra lời trên chăng?
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)